VẬN DỤNG PP BÀN TAY NẶN BỘT TRONG DH SINH HỌC THCS
CHƯƠNG 4
SỬ
DỤNG PHƯƠNG PHÁP "BÀN
4.1. Những thuận lợi và khó khăn khi sử dụng
phương pháp BTNB tại Việt
4.1.1. Thuận lợi
Hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đang thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện nền
giáo dục, trong đó đổi mới phương pháp dạy học là một trong các nhiệm vụ cấp
bách. Cùng với các phương pháp dạy học tích cực khác đang được triển khai,
phương pháp BTNB đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định đầu tư nghiên cứu,
biên soạn tài liệu, tổ chức tập huấn để tưng bước triển khai áp dụng trong các
trường tiểu học và trung học cơ sở.
Phương pháp BTNB là một phương pháp có tiến trình dạy rõ ràng, dễ hiểu, có thể
áp dụng được ở điều kiện của Việt
Qua quá trình thử
nghiệm, áp dụng phương pháp BTNB vào trong các lớp học, có thể nhận thấy sự ham
thích của học sinh. Các em hứng thú với những hoạt động tìm hiểu kiến thức mới.
Điều này chứng tỏ học sinh luôn ham thích được học tập, hăng say tìm tòi và
sang tạo.
4.1.2. Khó khăn
a) Về điều kiện, cơ sở vật chất
Trong các lớp học hiện nay, bàn ghế được bố trí theo dãy, nối tiếp nhau, không
thuận lợi cho việc tổ chức học theo nhóm. Trong khi đó, phần lớn các trường học
chưa có phòng học học bộ môn và phòng thí nghiệm để thuận lợi cho việc giảng
dạy các bộ môn khoa học.
Trang thiết bị nói chung trong các lớp học chưa đầy đủ phục vụ cho việc tổ chức
các hoạt động dạy học, nhất là còn thiếu các phương tiện hỗ trợ hoạt động báo
cáo, thảo luận của học sinh như máy tính, projector, máy chiếu sách, flip
chart, máy chiếu bản trong... Dụng cụ thí nghiệm còn chưa đồng bộ và thiếu
chính xác. Nguồn tài liệu bổ trợ cho hoạt động tìm tòi - khám phá của học
sinh còn hạn chế.
Mặt khác, số học sinh
trên một lớp quá đông nên việc tổ chức học tập theo nhóm rất khó khăn. Điều này
cũng gây khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động tham quan, dã ngoại, điều
tra tế cho học sinh.
b) Về đội ngũ giáo viên
Trình độ giáo viên hiện nay chưa đồng đều cả về chuyên môn và năng lực sư phạm.
Kiến thức chuyên sâu về khoa học của một bộ phận không nhỏ giáo viên còn hạn
chế. Vì vậy, giáo viên thường gặp nhiều khó khăn trong việc trả lời, giải đáp
các câu hỏi cũng như khó khăn trong việc lí giải thấu đáo các thắc mắc của học
sinh nêu ra trong quá trình học. Đây là một trở ngại rất lớn trong việc áp dụng
các phương pháp dạy học tích cực nói chung và phương pháp BTNB nói riêng.
Năng lực sư phạm của
giáo viên trong việc áp dụng các phương pháp dạy học mới nói chung còn hạn chế.
Điều đó thể hiện ở việc giáo viên thường gặp nhiều khó khăn trong việc nêu ra
tình huống mở đầu cho mỗi bài dạy trong phương pháp BTNB. Thường thì tình huống
đưa ra phải gắn với nội dung bài dạy, làm sao đảm bảo được vấn đề khơi sự tò
mò, ham thích trước vấn đề sắp học nhưng vẫn "giấu kín được kết quả của
bài học". Đây là việc làm gây nhiều lúng túng cho người dạy. Trong tiến
trình dạy học, ở một số bài học, giáo viên không có đủ kiến thức, khả năng để
tìm ra một số thí nghiệm chứng minh cho kiến thức bài học trong trường hợp học
sinh không tự nêu ra được thí nghiệm kiểm chứng cho biểu tượng ban đầu của
mình.
c) Về công tác quản lí
Hiện nay, một vấn đề còn nổi cộm, gây nhiều cản trở cho công tác đổi mới phương
pháp dạy học ở trường phổ thông là vấn đề đánh giá hoạt động dạy học của giáo
viên. Trong khi Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai áp dụng các phương pháp
dạy học mới, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc tổ chức hoạt động học tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh nhưng một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lí
chuyên môn ở các Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo chưa theo
kịp với tiến trình đổi mới đó. Vì thế, quan điểm đánh giá giờ dạy của họ vẫn
mang nặng tính hình thức với các tiêu chí đánh giá như: giáo viên có dạy hết
kiến thức trong bài hay không; giáo viên có sử dụng công nghệ thông tin trong
dạy học hay không; giáo viên sử dụng thí nghiệm và các phương tiện dạy có thành
công hay không... mà chưa chú ý nhiều đến hiệu quả hoạt động nhận thức cho học
sinh. Vì vậy, giáo viên thường rất dè dặt khi áp dụng phương pháp dạy học mới,
khi mà ở đó giáo viên phải tổ chức cho học sinh hoạt động nên nhiều khi không
thể chủ động hoàn toàn về mặt thời gian. Trong quá trình học sinh hoạt động,
thường có nhiều diễn biến bất ngờ mà giáo viên có thể không lường trước được
dẫn đến có thể không hoàn thành tất cả các khâu trong một tiết học và vì thế mà
giờ dạy lại không được đánh giá cao.
Công tác kiểm tra, đánh giá kiến thức của học sinh hiện nay cũng là một vấn đề
gây cản trở đến việc đổi mới phương pháp dạy học. Các bài thi và kiểm tra hiện
nay chủ yếu vẫn là kiểm tra sự ghi nhớ và vận dụng lí thuyết của học sinh.
"Thi gì, học nấy" luôn là tiêu chí lựa chọn của đại đa số mọi người
trên thế giới. Chính vì vậy mà các phương pháp dạy học tích cực nói chung và
phương pháp BTNB nói riêng chưa có được "chỗ đứng" vững chắc trong
mỗi giáo viên, học sinh và trong cả nền giáo dục Việt nam khi mà công tác kiểm
tra, đánh giá, thi cử chưa đổi mới theo hướng đánh giá kĩ năng và sự sáng tạo
của học sinh.
4.2. Lựa chọn chủ đề dạy học theo phương pháp
BTNB
Trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học theo phương pháp BTNB, học sinh cần
phải được quan sát một sự vật hay một hiện tượng của thế giới thực tại, gần
gũi với đời sống, dễ cảm nhận và các em sẽ thực hành trên những cái đó.
Trong quá trình tìm hiểu, học sinh phải lập luận, bảo vệ ý kiến của mình, đưa
ra tập thể thảo luận những ý nghĩ và những kết luận cá nhân, từ đó có những
hiểu biết mà nếu chỉ có những hoạt động, thao tác riêng lẻ không đủ tạo nên.
Những hoạt động do giáo viên đề xuất cho học sinh được tổ chức theo tiến
trình sư phạm nhằm nâng cao dần mức độ học tập. Các hoạt động này làm cho
các chương trình học tập được nâng cao lên và dành cho học sinh một phần tự chủ
khá lớn. Mục tiêu chính của quá trình dạy học là giúp học sinh chiếm lĩnh
dần dần các khái niệm khoa học và kĩ thuật, học sinh được thực hành, kèm theo
là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói. Những yêu cầu mang tính nguyên tắc nói
trên của phương pháp BTNB là sự định hướng quan trọng cho việc lựa chọn các chủ
đề dạy học. Như vậy, việc lựa chọn các chủ đề dạy học cần phải đảm bảo một số
yêu cầu sau đây:
- Các chủ đề dạy học phải gần gũi với đời sống mà học sinh dễ cảm nhận và đã có
ít nhiều những quan niệm ban đầu về chúng. Việc lựa chọn nội dung dạy học ở đây
là lựa chọn theo chủ đề chứ không phải theo bài học trong sách giáo khoa. Vì
vậy, căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn học, giáo viên có thể xác định
nội dung kiến thức khoa học trong một hay nhiều bài học trong sách giáo khoa để
tạo thành một chủ đề dạy học. Cũng chính vì thế, tiến trình dạy học theo phương
pháp BTNB không nhất thiết phải diễn ra đủ 5 bước trong một tiết học mà có thể
kéo dài trong một số tiết học tương ứng với quỹ thời gian được sử dụng theo
chương trình. Ví dụ chủ đề "Lực đẩy Ác si mét và sự nổi" là nội dung
kiến thức của 3 bài học trong chương trình Vật lí lớp 8. Lựa chọn chủ đề này để
tổ chức hoạt động dạy học theo phương pháp BTNB, giáo viên có thể sử dụng 3
tiết học và vì thế 5 bước của tiến trình dạy học được diễn ra trong 3 tiết học.
Chẳng hạn, hết tiết thứ nhất, học sinh mới có thể hoàn thành đến bước 3 - Đề
xuất câu hỏi và phương án thí nghiệm. Đến buổi học sau (theo thời khóa biểu)
học sinh mới thực hiện bước 4 - Tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, bao
gồm cả việc nghiên cứu các tài liệu khoa học và sách giáo khoa. Sau khi giáo
viên tổng kết, hợp thức hóa kiến thức, học sinh sử dụng tiết thứ 3 ở buổi học
tiếp theo để làm thí nghiệm thực hành nhằm nghiệm lại công thức tính lực đẩy Ác
si mét. Như vậy, với quỹ thời gian cho phép theo chương trình là 3 tiết, giáo
viên có thể sử dụng để tổ chức cho học sinh hoạt động theo đúng tiếp trình sư
phạm của phương pháp BTNB. Tuy nhiên, với việc tổ chức như vậy, hoạt động học
tập và nghiên cứu tài liệu khoa học của học sinh không chỉ dừng lại ở 3 tiết
trên lớp mà hoạt động này còn tiếp diễn ở nhà, trong khoảng thời gian giữa các
buổi học.
- Việc lựa chọn các chủ đề dạy học cần phải được tổ chức thành hệ thống từ thấp
đến cao trong phạm vi một lớp cũng như cả cấp học. Đặc biệt là khi lựa chọn các
chủ đề, giáo viên các môn khoa học dạy cùng một lớp cần phải có sự trao đổi,
thống nhất với nhau để có sự phối hợp khi cần thiết. Trước hết, việc trao đổi
giữa các giáo viên bộ môn sẽ tránh được sự chồng chéo hoặc gây quá tải đối với
học sinh khi các em phải thực hiện nhiều nhiệm vụ cùng một lúc. Hơn nữa, do có
cùng một tiêu chí là lựa chọn các chủ đề gần gũi với học sinh trong cuộc sống
nên cần có sự phối hợp giữa các giáo viên bộ môn để có thể cùng lựa chọn một số
chủ đề mang tính tích hợp. Điều này vừa tiết kiệm được thời gian đồng thời nâng
cao được hiệu quả dạy học về ứng dụng của kiến thức khoa học vào cuộc sống cho
học sinh.
- Việc lựa chọn các chủ
đề dạy học theo phương pháp BTNB cần phải chú ý đến một điểm rất quan trọng của
phương pháp này là học sinh phải tự đề xuất được các phương án thí nghiệm và tự
lực tiến hành các thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu. Vì vậy, đối với các chủ đề
cần tiến hành thí nghiệm thì các phương án thí nghiệm trong dạy học các chủ đề
này phải là các phương án thí nghiệm đơn giản, với các dụng cụ gần gũi với học
sinh, nhất là ưu tiên phát triển các thí nghiệm tự làm với các dụng cụ dễ kiếm
trong cuộc sống hàng ngày.
4.3. Lựa chọn và sử dụng thiết bị dạy học trong
phương pháp BTNB
4.3.1. Yêu cầu chung khi sử dụng thiết bị dạy học trong
phương pháp BTNB
Thiết bị dạy học (TBDH)
là một phần không thể thiếu của quá trình dạy học trên lớp của giáo viên và học
sinh. Trong quá trình thực hiện bước thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu của phương
pháp BTNB, TBDH làm cho tiết học trở nên sinh động, dễ hiểu. Khi sử dụng phương
pháp BTNB, TBDH có ý nghĩa to lớn đối với quá trình dạy học vì học sinh được
tri giác trực tiếp đối tượng. Con đường nhận thức này được thể hiện qua việc
học sinh quan sát các đối tượng nghiên cứu, thông qua các TBDH để tiến hành các
thí nghiệm nghiên cứu. Trong quá trình thực hiện các bước thí nghiệm tìm tòi -
nghiên cứu, học sinh tri giác không phải bản thân các đối tượng nghiên cứu mà
tri giác những hình ảnh, biểu tượng, sơ đồ, mô hình hóa phản ánh một bộ phận
nào đó của đối tượng cũng như nghiên cứu những đặc tính cơ bản của sự vật hiện
tượng. TBDH còn giúp học sinh phát triển năng lực nhận thức, đặc biệt là khả
năng quan sát, tư duy (phân tích, tổng hợp các hiện tượng, rút ra những kết
luận có độ tin cậy), giúp học sinh hình thành cảm giác thẩm mỹ, được hấp dẫn
bởi cái đẹp, cái đơn giản, tính chính xác của thông tin chứa trong đồ dùng dạy
học. TBDH giúp làm sinh động nội dung học tập, nâng cao hứng thú học tập bộ
môn, nâng cao lòng tin của học sinh vào khoa học.
Trong phương pháp
BTNB, TBDH được sử dụng bao gồm các TBDH truyền thống như: bảng đen, bảng
trắng, mô hình, vật thật, tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ, dụng cụ thí nghiệm… và
các TBDH hiện đại như máy tính, các loại máy chiếu, các loại băng đĩa, phim
khoa học… Việc kết hợp hài hoà các loại TBDH sẽ tạo được hứng thú, tăng hiệu
quả học tập cho học sinh và giảm sự vất vả cơ bản của giáo viên trong quá trình
dạy học. Do đặc điểm của quá trình nhận thức, mức độ tiếp thu kiến thức mới của
học sinh tăng dần theo cấp độ của tri giác nên khi đưa các TBDH vào dạy học,
giáo viên có điều kiện để nâng cao tính tích cực học tập, đôc lập của học sinh
và từ đó nâng cao hiệu quả của quá trình tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và hình
thành kỹ năng, kỹ xảo của các em.
Khi sử
dụng phương pháp BTNB, giáo viên cần phải sử dụng TBDH phù hợp, đúng lúc, đúng
chỗ, để tạo được hiệu quả cao nhất. Chẳng hạn, ở bước "Tình huống xuất
phát và câu hỏi nêu vấn đề", giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh hay video
khoa học để kích thích hứng thú nhận thức và khơi dậy những biểu tượng ban đầu
vốn có của các em về chủ đề nghiên cứu. Trong bước "Tiến hành hoạt động
tìm tòi - nghiên cứu", giáo viên có thể cho học sinh sử dụng máy tính,
mạng internet, tranh ảnh khoa học, sơ đồ, vật thật… để giúp học sinh tìm ra
những đặc điểm, tính chất của đối tượng cần nghiên cứu. Với phương pháp mô
hình, giáo viên có thể sử dụng các mô hình tự tạo hoặc các mô hình có sẵn, sưu
tầm để giúp học sinh khám phá những đặc tính cơ bản của đối tượng khó quan sát
bằng vật thật (trái đất, mặt trời, mặt trăng, vì sao). Khi sử dụng phương pháp
nghiên cứu tài liệu trong áp dụng phương pháp BTNB, giáo viên có thể kết hợp
các tài liệu khoa học, hình vẽ khoa học với các PTDH hiện đại nhằm giúp học
sinh nghiên cứu nội dung kiến thức cần thiết cho đối tượng cần tìm hiểu.
Việc sử dụng TBDH trong
Phương pháp BTNB cso những yêu cầu bắt buộc, khác xa so với các phương pháp dạy
học khác. Với các phương pháp dạy học thông thường, việc sử dụng tranh ảnh,
bảng biểu, mô hình, vật thật… nhiều khi chí mang tính minh họa, kiểm chứng kiến
thức do giáo viên đưa ra. Trong phương pháp BTNB, giáo viên chỉ đưa cho học
sinh tìm hiểu tranh vẽ khoa học, mô hình, vật thật… khi học sinh đã đề xuất
được các phương án thí nghiêm nghiên cứu (quan sát mô hình, thí nghiệm trực
tiếp, nghiên cứu tài liệu). Trước đó, các TBDH phải được cất dấu nhằm yêu cầu
học sinh phải tự suy nghĩ và đề xuất phương án thí nghiệm nghiên cứu. Trong
trường hợp giáo viên cùng học sinh chuẩn bị các vật dụng cho bài dạy, giáo viên
chỉ phân cho các nhóm chuẩn bị những vật dụng đơn giản mà học sinh không biết
chúng được dùng để làm gì trong bài học.
Khi khai thác các tranh
ảnh khoa học, vật thật... trong phương pháp BTNB, giáo viên cần chú ý sử dụng
chúng trong bước "Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề" sao cho
không lộ ra nội dung kiến thức của bài học cũng như các thí nghiệm sẽ làm ở các
bước tiếp theo vì điều đó sẽ làm mất đi đặc trưng cơ bản của phương pháp BTNB .
Trong các bước "Bộc lộ biểu tượng ban đầu" và "Đề xuất câu
hỏi", giáo viên không nên sử dụng các tranh ảnh khoa học, vật thật hay mô
hình… mà chỉ nên sử dụng chúng cho bước "Đề xuất phương thí nghiệm".
Trước mỗi bài học, giáo
viên cần phải kiểm tra các hình ảnh, thiết bị dạy học… để đảm bảo độ an toàn và
áp dụng của chúng. Với các bài học có sử dụng phương pháp thí nghiệm trực tiếp,
giáo viên cần làm trước các thí nghiệm với các thiết bị đã sử dụng để không
lúng túng trong quá trình làm ở lớp cùng học sinh và chủ động trong việc kiểm
tra xem kết quả của thí nghiệm của học sinh có như yêu cầu đặt ra không. Trong
quá trình tiến hành thí nghiệm trực tiếp tại lớp học, giáo viên nên sử dụng các
vật dụng khác nhau cho mỗi thí nghiệm khác nhau, không sử dụng chung một vật
dụng (ly, cốc, thìa…) cho nhiều thí nghiệm khác nhau, nhất là đối với các thí
nghiệm hóa học để không ảnh hưởng đến kết quả thí nghệm. Nếu các vật dụng thí
nghiệm không đảm bảo về số lượng thì sau mỗi thí nghiệm, giáo viên nên yêu cầu
học sinh rửa sạch các vật dụng đã dùng rồi mới tiến hành các thí nghiệm tiếp
theo.
Khi sử dụng phương pháp
BTNB, học sinh cần phải tự tiến hành thí nghiệm và tiến hành nhiều lần để có
kết quả tốt, vì vậy giáo viên cần phả chú ý vấn đề an toàn trong quá trình các
em làm thí nghiệm.
4.3.2. Phát triển thiết bị dạy học tự làm trong phương pháp BTNB
Trong điều kiện cơ sở vật chất chưa đảm bảo cho việc dạy và
học, việc tự làm TBDH của giáo viên rất quan trọng và cần thiết. TBDH tự làm
giúp giáo viên chủ động hơn trong quá trình xây dựng tiến trình cho bài học và
quá trình tổ chức hoạt động học cho học sinh lên lớp. Từ đó có thể giúp học
sinh chiếm lĩnh được các tri thức của bài học một cách chủ động, biến quá trình
dạy và học của thầy trò là một quá trình gắn kết chặt chẽ giữa lý thuyết và
thực hành. Trong trường hợp TBDH được cung cấp theo danh mục bị hư hỏng hoặc
không hoạt động tốt, giáo viên có thể tự làm TBDH để thay thế, vì thế dễ dàng
hơn cho giáo viên khi sử dụng, bảo quản và sửa chữa (nếu có). Các TBDH tự làm
thường nhẹ, được làm từ những vật liệu dễ kiếm với chi phí đầu tư rất thấp tạo
điều kiện thuận lợi cho giáo viên khi bảo quản, di chuyển, thay thế các vật
dụng (nếu cần) và sử dụng cho nhiều năm.
TBDH tự làm
trong phương pháp BTNB cần đảm bảo:
- Về chất lượng: TBDH tự làm phải đảm bảo cho học sinh tiếp thu được kiến thức,
kĩ năng, kĩ xảo; giúp cho giáo viên tổ chức một cách thuận lợi các kiến thức,
thí nghiệm phức tạp, để học sinh sau quá trình tìm tòi - khám phá với các TBDH
ấy có thể hiểu thấu đáo các nội dung của hoạt động học. Nội dung và cấu tạo của
các TBDH phải đảm bảo các đặc trưng của việc dạy lý thuyết và thực hành, phải
phù hợp với nhiệm vụ sư phạm và phương pháp giảng dạy, thúc đẩy khả năng tiếp
thu năng động của học sinh. Các TBDH hợp thành một bộ phải có mối liên hệ chặt
chẽ về nội dung, bố cục và hình thức, trong mỗi cái phải có vai trò và chỗ đứng
riêng.
- Sự phù hợp của TBDH
với tiêu chuẩn tâm sinh lý của giáo viên và học sinh: TBDH gây được sự hứng thú
cho học sinh và thích ứng với quá trình tìm tòi nghiên cứu của thầy và trò.
Những TBDH cần phải có màu sắc sáng sủa, hài hòa, giống màu sắc của vật thật
(mô hình tranh vẽ). TBDH đảm bảo các yêu cầu về độ an toàn và không gây độc
hại.
- Sự phù hợp với các tiêu chuẩn sư phạm: TBDH phải đảm bảo tỷ lệ cân xứng, hài
hòa. TBDH phải làm cho học sinh thích thú khi sử dụng, kích thích tình yêu nghề
trong giáo viên, làm cho học sinh nâng cao cảm nhận chân, thiện, mỹ. Đồ dùng
dạy học phải có cấu tạo đơn giản, dễ điều khiển, chắc chắn, có khối lượng và
kích thước phù hợp, có kết cấu thuận lợi cho việc vận chuyển, đảm bảo được độ
bền để có thể sử dụng cho nhiều năm.
- Tính kinh tế: TBDH ít chi phí, phải có tuổi thọ cao, chi phí bảo quản thấp và
mang lại hiệu quả cao cho quá trình dạy và học.
4.4. Tổ chức hoạt động quan sát và thí nghiệm
trong phương pháp BTNB
Trong dạy học các bộ môn khoa học, những đặc điểm của phương pháp khoa học nhất
thiết phải được phản ánh trong lí luận dạy học bộ môn. Cũng như các phương pháp
dạy học khác, trong quá trình dạy học các môn khoa học theo phương pháp BTNB,
việc sử dụng các hoạt động quan sát và thí nghiệm giữ vai trò đặc biệt quan
trọng, cần phải được vận dụng một cách rộng rãi và linh hoạt trong các khâu
khác nhau của quá trình dạy học. Ví dụ như khi diễn giảng, giáo viên có thể
hướng dẫn học sinh quan sát, thí nghiệm để minh họa cho các kiến thức đã được
trình bày; giáo viên cũng có thể biểu diễn thí nghiệm hoặc mẫu vật cho học sinh
quan sát và rút ra kết luận. Tuy nhiên, việc tổ chức cho học sinh thông qua
hoạt động tự lực quan sát, thao tác thí nghiệm tác động trên đối tượng nghiên
cứu và rút ra kết luận mới đem lại hiệu quả cao nhất. Trong phương pháp BTNB,
hoạt động quan sát và thí nghiệm của học sinh đặc biệt quan trọng, quyết định
đến sự thành công hay thất bại của ý đồ sư phạm của giáo viên. Từ bước đầu
tiên, khi giáo viên đưa ra tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề, học sinh
đã phải liên tưởng được đến những hiểu biết ban đầu của mình về các sự vật,
hiện tượng thông qua sự quan sát trong cuộc sống hàng ngày. Trong thảo luận về
các biểu tượng ban đầu giữa các nhóm, học sinh cũng cần phải có kĩ năng quan
sát để thấy được những điểm khác biệt để từ đó xuất hiện các câu hỏi, các giả
thuyết hay dự đoán. Đặc biệt, quan sát, thí nghiệm là hoạt động chủ yếu trong
giai đoạn tìm tòi - nghiên cứu, giải quyết vấn đề của học sinh.
4.4.1. Nguyên tắc thiết kế quy trình các
hoạt động quan sát, thí nghiệm theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của
học sinh
Theo TS. Nguyễn Vinh Hiển, khi thiết kế hoạt động quan sát, thí nghiệm cho học
sinh cần phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Đảm bảo mục tiêu của từng
chương và của từng bài học về kiến thức, kĩ năng và thái độ
Nhiệm vụ của cả quá trình dạy học được cụ thể hóa thành mục tiêu của từng
chương, từng bài trong chương trình. Quan niệm phổ biến hiện nay ở các trường
phổ thông là kết thúc mỗi tiết dạy, giáo viên phải cố gắng truyền đạt bằng hết
những nội dung có trong sách giáo khoa cho học sinh nắm được ngay tại lớp. Quan
niệm một cách cứng nhắc như vậy là chưa hợp lí mà cần phải thông qua những hoạt
động độc lập, tự lực của học sinh kể cả ở nhà nữa thì mới đạt được mục tiêu đã
đề ra của bài học. Vì vậy, việc xác định mức độ nội dung để kiểm tra, đánh giá
cần được cân nhắc, xem xét cẩn thận tại từng thời điểm của quá trình dạy học.
Điều này cũng cho phép giáo viên có thể linh hoạt bố trí các hoạt động trên lớp
sao cho vừa đủ, tập trung vào các vấn đề then chốt; dành lại một phần nội dung
với khối lượng công việc và mức độ khó khăn hợp lí để học sinh tự lực (hoạt
động cá nhân hoặc theo nhóm) ở nhà. Tuy nhiên cần phải đảm bảo chắc chắn rằng
khi bước vào bài học tiếp theo sau thì các nhiệm vụ của bài trước đó đã cơ bản
hoàn thành.
Nguyên tắc 2: Phát huy tính chủ động, tích
cực, sáng tạo; bồi dưỡng hứng thú học tập; phát triển năng lực nhận thức, rèn
luyện phương pháp tự học; phù hợp với đặc điểm tâm - sinh lí học sinh
Nguyên tắc này nhằm đáp ứng yêu cầu chiến lược và cấp bách của giáo dục nói
chung, giáo dục phổ thông nói riêng hiện nay. Tính tích cực học tập có ba mức
độ từ thấp đến cao là: bắt chước, tìm tòi và sáng tạo. Đối với học sinh tiểu
học và trung học cơ sở, giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ, tổ chức tập dượt từng
bước để học sinh thực hiện các hoạt động tìm tòi và phần nào có sự sáng tạo.
Các yếu tố tâm lí như
hứng thú, tực giác, tích cực, độc lập và sáng tạo luôn có tác động thúc đẩy qua
lại lẫn nhau. Chúng vừa là nguyên nhân, lại vừa được kích thích bởi các thành
công mà học sinh đạt được trong quá trình học tập. Do vậy, mỗi biện pháp, mỗi
phương pháp dạy học tích cực đều có hiệu quả tốt cho tất cả các yếu tố tâm lí
và đảm bảo tốt hơn đối với kết quả học tập.
Hiện nay, ở trường tiểu
học và trung học cơ sở, việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, trong đó
có phương pháp BTNB là hết sức cần thiết nhằm phát huy triệt để tính tích cực,
tự lực và sáng tạo của học sinh trong dạy học. Việc tổ chức hoạt động học tập
theo nhóm nhỏ như phương pháp BTNB, kết hợp với các phương pháp tích cực đã có
trong hệ thống các phương pháp dạy học truyền thống như: vấn đáp tìm tòi, thí
nghiệm nghiên cứu, công tác độc lập... dần dần làm cho trong mỗi tiết học bình
thường, học sinh được hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều
hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn trên con đường lĩnh hội nội dung
học tập.
Nguyên tắc 3: Đảm bảo sự thống nhất giữa
phương pháp khoa học và phương pháp dạy học bộ môn
Nguyên tắc này đòi hỏi khi dạy học giáo viên phải chuyển hóa tri thức trong
chương trình đã được thể hiện bằng nội dung các bài học trong sách giáo khoa
thành các tri thức học sinh cần lĩnh hội trong học tập; giáo viên gợi ra những
vấn đề để học sinh tự giải quyết, sao cho hoạt động của học sinh nhất thời
"gần giống" với hoạt động của nhà nghiên cứu. Đây cũng chính là đặc
trưng quan trọng của tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB đã trình bày ở
trên.
Theo nguyên tắc này, giáo viên có thể và cần phải gia công sư phạm nội dung
sách giáo khoa cho phù hợp với lôgíc tổ chức hoạt động nhận thức sáng tạo của
học sinh như đã trình bày trong phần lựa chọn chủ đề dạy học theo phương pháp
BTNB.
Nguyên tắc 4: Đảm bảo tính khả thi của các hoạt động quan sát, thí nghiệm
trong nhiều hoàn cảnh dạy học khác nhau
Nghề dạy học có cả hai khía cạnh là kĩ thuật và nghệ thuật. Với khía cạnh nghệ
thuật, nó được phát triển phụ thuộc vào năng khiếu riêng của từng giáo viên,
không phải bất cứ ai có tay nghề thành thạo đều có thể đạt tới trình độ nghệ
thuật. Nhưng là một loại hình hoạt động của con người, dạy học không thể thiếu
phương tiện và những phương pháp, cách thức tiến hành. Đó chính là khía cạnh kĩ
thuật của hoạt động dạy học. Muốn dạy tốt, người giáo viên nhất định phải làm
chủ kĩ thuật dạy học ở mức độ thành thạo. Tuy nhiên, hiệu quả chất lượng của kĩ
thuật lại phụ thuộc vào quy trình công nghệ mà trong đó kĩ thuật cùng với các
yếu tố khác hợp thành quy trình hợp lí, bao gồm những công đoạn, những hành
động, những thao tác được thiết kế và thi công một cách cụ thể, cho những kết
quả ổn định.
4.4.2. Ví dụ về quy trình tổ chức hoạt động quan sát, thí nghiệm theo hướng
tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh
a) Quy trình dạy học loại bài kiến thức
hình thái thực vật môn Sinh học
|
Các bước |
Giáo viên |
Học sinh |
|
Xác định nhiệm vụ học tập |
- Nêu câu hỏi, yêu cầu tái hiện kiến thức. |
- Suy nghĩ, trả lời các câu hỏi của giáo viên. |
|
Hướng dẫn quan sát mẫu |
- Kiểm tra mẫu vật, dụng cụ của học sinh. |
- Lấy ra mẫu vật điển hình theo yêu cầu của giáo viên. |
|
Tự quan sát dựa theo mẫu |
- Chia nhóm học sinh, kiểm tra mẫu vật, phân công nhiệm
vụ, nêu mục đích, yêu cầu của quan sát. |
- Lập thành các nhóm, phân công người đại diện, người ghi
chép; chọn ra mẫu vật; hiểu mục đích, yêu cầu của việc quan sát. |
|
Đánh giá, chính xác hóa, mở rộng kiến thức |
- Đánh giá chung kết quả hoạt động quan sát của cả lớp. |
- Tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau. |
|
Hướng dẫn, giao bài tập quan sát ở nhà |
Phổ biến, hướng dẫn mục đích, yêu cầu, nội dung quan sát
và ghi chép ở nhà |
- Ghi chép, hiểu, nhớ các nội dung do giáo viên phổ biến,
yêu cầu. |
b) Quy trình dạy học loại bài kiến thức cấu tạo trong thực vật môn Sinh vật
|
Các bước |
Giáo viên |
Học sinh |
|
Xác định nhiệm vụ học tập |
- Nêu câu hỏi yêu cầu tái hiện và phân nhỏ chức năng của
cơ quan thực vật |
- Phát biểu tái hiện về chức năng của cơ quan thực vật. |
|
Quan sát tái hiện |
- Đưa ra tiêu bản, mô hình, tranh ảnh. |
- Quan sát cá nhân, thảo luận với bạn ngồi cạnh để gọi
tên và nêu được chức năng của những bộ phận đã biết. |
|
Quan sát phát hiện mới |
- Hướng dẫn học sinh quan sát, thảo luận để tìm hiểu kĩ
hơn những bộ phận đã biết, cấu tạo những bộ phận mới biết trong mối quan hệ
phù hợp với chức năng của từng bộ phận. |
- Quan sát, thảo luận nhóm, mô tả đặc điểm cấu tạo phù
hợp chức năng của từng bộ phận trong cơ quan thực vật. Ghi nhận xét sơ bộ vào
phiếu học tập. |
|
Đánh giá, chính xác hóa, mở rộng kiến thức |
- Đánh giá, động viên kết quả quan sát của cả lớp. |
- Tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau. |
|
Hướng dẫn, giao bài tập quan sát ở nhà |
Giao bài tập, hướng dẫn tự học nhằm củng cố, mở rộng, vận
dụng kiến thức. |
Ý thức rõ nhiệm vụ học tập ở nhà; đọc, thảo luận, vẽ và
chú thích hình... |
c). Quy trình dạy học loại bài kiến thức sinh lí thực vật môn Sinh học
|
Các bước |
Giáo viên |
Học sinh |
|
Xác định nhiệm vụ học tập |
- Nêu bài tập, câu hỏi đòi hỏi tái hiện kiến thức. |
- Tái hiện kiến thức cũ, liên tưởng đến các hiện tượng
thực tế có liên quan. |
|
Nêu giả thuyết, thiết kế thí nghiệm |
- Nêu các câu hỏi gợi ý. |
- Liên tưởng các hiện tượng thực tế. |
|
Làm thí nghiệm kiểm tra |
Phân công các nhóm học sinh về nhà làm thí nghiệm hoặc
làm sẵn thí nghiệm ở nhà đem đến lớp biểu diễn, trình bày kết quả cho học
sinh xem. |
Làm thí nghiệm ở nhà hoặc quan sát thí nghiệm do giáo
viên biểu diễn trên lớp, thảo luận, rút ra nhận xét, kết luận sơ bộ, ghi vào
phiếu học tập. |
|
Rút ra kết luận |
- Tổ chức việc báo cáo, trình bày kết quả thí nghiệm. |
- Báo cáo, trình bày kết quả thí nghiệm. |
|
Đánh giá, hướng dẫn, giao bài tập quan sát ở nhà |
- Đánh giá, động viên kết quả hoạt động thí nghiệm của
học sinh. |
- Tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau. |
d) Quy trình dạy học giải quyết vấn đề
e) Quy trình thiết kế và thực hiện khảo sát thực nghiệm
khoa học
Bước 1: Giải pháp để tiến hành khám phá khoa học
Cái có thể thay đổi là gì?
Cái có thể đo là gì?
Bước 2: Chọn các biến
Ta
sẽ thay đổi cái gì?
Ta
sẽ đo cái gì?
Cái sẽ giữ không đổi là gì?
Bước 3: Đặt câu hỏi
Khi
thay đổi "Cái ta muốn thay đổi" thì cái gì sẽ xảy ra?
Bước 4: Dự đoán điều có thể xảy ra
Khi
ta (làm tăng, làm giảm, làm ngắn...) "Cái ta muốn thay đổi",
ta nghĩ "Cái ta đo" sẽ (tăng, giảm, dài ra, ngắn lại, biến
đổi...), bởi vì "Lời giải thích cho dự đoán"
Bước 5: Kế hoạch và phương pháp
Liệt kê
các thiết bị cần thiết để khảo sát
Viết ra
các bước cần tiến hành để khảo sát
Bước 6: Lập bảng kết quả
Bước 7: Vẽ đồ thị
Bước 8: Kết luận
4.5. Ví dụ minh họa về tiến trình dạy học theo
phương pháp BTNB
Bài 1: CẤU TẠO BÊN TRONG CỦA HẠT ĐẬU
1. Mục tiêu bài học
Sau
bài học, học sinh hiểu và mô tả được cấu tạo bên trong của hạt đậu
2. Thiết bị dạy học
- Một số hạt đậu ngự đã được ngâm nước;
- Dao nhỏ dùng để tách hạt đậu.
3. Tiến trình dạy học cụ thể
|
Hoạt động của giáo viên |
Hoạt động của học sinh |
|
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề |
|
|
Giáo viên đưa ra một vài hạt đậu ngự (Loại đậu hạt lớn
nhằm mục đích cho học sinh dễ quan sát). Đồng thời giáo viên đặt câu hỏi: "Theo
các em trong hạt đậu có gì?". |
Học sinh quan sát các hoạt đậu ngự và ý thức được nhiệm
vụ cần làm. |
|
Bước 2: Bộc lộ biểu tượng ban đầu |
|
|
Trong thời gian học sinh vẽ các ý kiến của mình vào vở
thí nghiệm, giáo viên tranh thủ quan sát nhanh để tìm các hình vẽ đúng và cần
phải chú trọng đến các hình vẽ sai (biểu tượng ban đầu "ngây thơ"). |
Học sinh vẽ theo suy nghĩ cá nhân ban đầu về những gì có
bên trong hạt đậu. Thời gian cho hoạt động này khoảng 2-3 phút. |
|
Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án thí nghiệm |
|
|
Giả sử sau khi quan sát nhanh hoạt động cá nhân của các
học sinh trong lớp về hình vẽ biểu tượng ban đầu "Có gì bên trong hạt
đậu?" Giáo viên chọn được 9 hình vẽ khác nhau như hình vẽ nêu ở bước 2.
Mặc dù các hình vẽ khác nhau nhưng tựu chung lại giáo viên có thể gợi ý để
học sinh thấy có những điểm chung trong quan niệm ban đầu của các em. Cụ thể
là: |
Sau khi giúp học sinh so sánh và gợi ý để học sinh phân
nhóm các ý kiến ban đầu, giáo viên hướng dẫn các học sinh đặt các câu hỏi
nghi vấn. Cụ thể trong trường hợp đang xét, học sinh có thể đưa ra các câu
hỏi: |
|
Giáo viên yêu cầu học sinh đề xuất thí nghiệm tìm tòi -
nghiên cứu cho các câu hỏi xuất phát từ sự khác nhau của các biểu tượng ban
đầu về cấu tạo bên trong của hạt đậu. |
Học sinh có thể đề xuất nhiều phương án như: |
|
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu |
|
|
Giáo viên khéo léo nhận xét các ý kiến trên đều có lý
nhưng cả lớp sẽ thực hiện phương án tách hạt đậu ra để quan sát, tìm hiểu cấu
tạo bên trong của hạt đậu. Lúc này giáo viên mới phát cho mỗi học sinh một
hạt đậu (tương ứng với số lượng học sinh trong mỗi nhóm, có thể tăng 2, 3 hạt
dự phòng trong trường hợp học sinh tách hạt đậu không thành công); đồng thời
hướng dẫn học sinh tách hạt đậu ở phía lưng hạt (để tránh gẫy lá mầm ở phía
bụng hạt đậu). Để học sinh tách hạt đậu dễ dàng, giáo viên phải ngâm hạt đậu
vào trong nước ấm (theo 2 sôi/3 lạnh) một đêm trước khi làm thí nghiệm (nhằm
làm hạt đậu phình to, dễ bóc). |
Học sinh tiến hành thí nghiệm tách hạt đậu để quan sát và
ghi chép vào vở thí nghiệm. |
|
Bước 5: Kết luận, hợp thức hóa kiến thức |
|
|
Sau khi cả lớp thực hiện quan sát, vẽ hình, chú thích
xong thì giáo viên cho học sinh quan sát thêm một tranh vẽ phóng to cấu tạo
bên trong hạt đậu có chú thích (phóng lên màn hình bằng máy chiếu hoặc treo
tranh) hoặc cho học sinh quan sát hình vẽ trong sách giáo khoa nếu có (phương
pháp nghiên cứu tài liệu). |
Học sinh quan sát tranh vẽ về cấu tạo bên trong của hạt
đậu, vẽ lại hình và ghi chú vào vở thí nghiệm. Lúc này học sinh sẽ tự điều
chỉnh các thuật ngữ khoa học cần chú thích trong hình vẽ mà các em làm chưa
đúng. |
|
Giáo viên giới thiệu cấu tạo bên trong của hạt đậu với
hình vẽ khoa học có sẵn hoặc hình tự vẽ (nếu trường hợp không có tranh vẽ in
sẵn). Giáo viên lưu ý học sinh một số chú thích về thuật ngữ khoa học trong
quá trình quan sát, vẽ tranh. Để khắc sâu kiến thức cho học sinh, giáo viên
quay lại các biểu tượng ban đầu trước khi học kiến thức của học sinh còn lưu
trên bảng cùng với các câu hỏi nghi vấn ở bước 3 đã đề xuất. Thông qua đó giáo
viên khéo léo nhấn mạnh cho học sinh với hoạt động thí nghiệm mà học sinh đề
xuất (tách hạt đậu ra để quan sát) chính học sinh có thể tìm ra câu trả lời
cho các câu hỏi nghi vấn đồng thời chỉ cho các em thấy sau quá trình học về
cấu tạo bên trong của hạt đậu các em đã có hình vẽ chính xác hơn về cấu tạo
bên trong của hạt đậu so với các hình vẽ biểu tượng ban đầu. |
Học sinh đối chiếu lại với các biểu tượng ban đầu về cấu
tạo bên trong của hạt đậu để khắc sâu thêm kiến thức. |
Bài 2: SỰ BAY HƠI
1. Mục tiêu bài học
Sau
bài học, học sinh:
-
Giải thích được sự bay hơi,
-
Nêu được các nhân tố ảnh hưởng đến tốc độ bay hơi
-
Nêu được một số ứng dụng của sự bay hơi trong cuộc sống hàng ngày
2. Thiết bị dạy học
- Một số đĩa (nhôm hoặc sứ) nông, có kích thước khác nhau.
- Hộp dụng cụ: máy sấy tóc, đèn, bật lửa, miếng mút… - Ấm
siêu tốc;
- Đồng hồ bấm giây,
3. Tiến trình dạy học cụ thể
|
Hoạt động của giáo viên |
Hoạt động của học sinh |
|
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề |
|
|
Giáo viên gợi lại cho học sinh thấy rằng các vật ướt như
quần áo, bát đĩa... sau một khoảng thời gian nào đó sẽ khô. Tùy từng điều
kiện cụ thể mà các vật bị ướt có thể khô nhanh hay chậm. Từ đó, giáo viên nêu
câu hỏi: Cần phải làm thế nào để làm một vật bị ướt khô nhanh hơn? |
Học sinh liên hệ được với những hoạt động diễn ra trong
cuộc sống hàng ngày như phơi quần áo, bát đĩa, thóc lúa... để từ đó ý thức
được vấn đề mà giáo viên nêu ra là vật trở nên khô khi nước từ các vật bị ướt
bay hơi đi. Muốn khô nhanh thì phải làm cho nước bay hơi nhanh. |
|
Bước 2: Bộc lộ biểu tượng ban đầu |
|
|
Trong khi học sinh viết ra các ý kiến của mình về cách
làm cho một vật bị ướt khô nhanh, giáo viên đi xuống và quan sát vở thí
nghiệm của một số học sinh để nắm bắt nhanh các quan niệm ban đầu của học
sinh về sự bay hơi. Trong quá trình quan sát, cố gắng nắm bắt nhanh những
quan niệm khác biệt của học sinh, chọn những học sinh có quan niệm
"sai" nhiều nhất để yêu cầu lên trình bày trước, những học sinh có
quan niệm "đúng" nhất cho trình bày sau. |
Học sinh làm việc cá nhân, ghi những quan niệm của mình
về cách làm cho một vật khô nhanh. |
|
Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án thí nghiệm |
|
|
Tổ chức cho học sinh nêu các quan niệm ban đầu và thảo
luận. Chú ý làm cho học sinh phát hiện được các điểm quan trọng trong các
cách làm khác nhau: |
Từ các quan niệm ban đầu, học sinh đưa ra các câu hỏi
như: |
|
Giáo viên yêu cầu học sinh đề xuất các phương án thí
nghiệm nhằm tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi mà học sinh nêu ra bằng cách
nêu các câu hỏi: |
Học sinh đề xuất các phương án thí nghiệm: |
|
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu |
|
|
Giáo viên phát cho học sinh các dụng cụ thí nghiệm: |
Học sinh tiến hành thí nghiệm theo nhóm nhỏ. |
|
Bước 5: Kết luận, hợp thức hóa kiến thức |
|
|
Giáo viên yêu cầu các nhóm học sinh báo cáo kết quả thí
nghiệm và thảo luận. Có thể yêu cầu mỗi nhóm ghi kết quả thí nghiệm của nhóm
mình vào tờ giấy A0 để treo lên và so sánh. |
Đại diện các nhóm học sinh báo cáo kết quả thí nghiệm của
nhóm mình, trả lời các câu hỏi của nhóm bạn. |
|
PHIẾU TỔNG KẾT KIẾN THỨC
1. Sự bay hơi
- Sự
bay hơi là hiện tượng nước biến thành hơi nước. |
|
|
Giáo viên phát cho học sinh phiếu tổng kết kiến thức.
Giao cho học sinh tiếp tục tìm hiểu về ứng dụng của sự bay hơi trong cuộc
sống. |
Nhận các phiếu tổng kết kiến thức và dán vào vở thí
nghiệm. |
Bài 3: LỰC ĐẨY ÁC SI MÉT VÀ SỰ NỔI
1. Mục tiêu bài học
Sau
bài học, học sinh:
- Phát biểu và viết được biểu thức lực đẩy Ác si mét trong chất lỏng,
-
Nêu được điều kiện một vật chìm, nổi, lơ lửng trong chất lỏng,
-
Xác định được độ lớn của lực đẩy Ác si mét khi một vật nổi trên mặt thoáng của
chất lỏng.
2. Thiết bị dạy học
- Bộ thí nghiệm về lực đẩy Ác si mét;
- Bóng bàn: 3 quả;
- Bình thủy tinh 500 ml;
- Xi lanh và kim tiêm.
3. Tiến trình dạy học cụ thể
|
Hoạt động của giáo viên |
Hoạt động của học sinh |
|
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề |
|
|
Giáo viên gợi lại cho học sinh thấy rằng khi thả các vật
vào nước ta thường thấy có vật thì chìm vào trong nước nhưng có vật thì lại
nổi trên mặt nước. Yêu cầu học sinh lấy một số ví dụ trong thực tế về các vật
nổi/chìm trong nước và nêu câu hỏi: Với điều kiện nào thì một vật chìm
trong nước? Với điều kiện nào thì một vật nổi trên mặt nước? |
Học sinh nêu được một số ví dụ trong thực tế như: |
|
Bước 2: Bộc lộ biểu tượng ban đầu |
|
|
Trong khi học sinh viết ra các ý kiến của mình về điều
kiện chìm/nổi của một vật, giáo viên đi xuống và quan sát vở thí nghiệm của
một số học sinh để nắm bắt nhanh các quan niệm ban đầu của học sinh về sự
chìm, nổi của các vật. Trong quá trình quan sát, cố gắng nắm bắt nhanh những
quan niệm khác biệt của học sinh, chọn những học sinh có quan niệm
"sai" nhiều nhất để yêu cầu lên trình bày trước, những học sinh có
quan niệm "đúng" nhất cho trình bày sau. |
Học sinh làm việc cá nhân, ghi những quan niệm của mình
về điều kiện vật nổi/chìm trong nước. |
|
Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án thí nghiệm |
|
|
Tổ chức cho học sinh nêu các quan niệm ban đầu và thảo
luận. Chú ý làm cho học sinh phát hiện được những mâu thuẫn như: |
Từ các quan niệm ban đầu, học sinh đưa ra các câu hỏi
như: |
|
Giáo viên yêu cầu học sinh đề xuất các phương án thí
nghiệm nhằm tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi mà học sinh nêu ra bằng cách
nêu các câu hỏi: |
Học sinh đề xuất các phương án thí nghiệm: |
|
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu |
|
|
Giáo viên phát cho học sinh các dụng cụ thí nghiệm: |
Học sinh tiến hành thí nghiệm theo nhóm nhỏ. |
|
Bước 5: Kết luận, hợp thức hóa kiến thức |
|
|
Giáo viên yêu cầu các nhóm học sinh báo cáo kết quả thí
nghiệm và thảo luận. Có thể yêu cầu mỗi nhóm ghi kết quả thí nghiệm của nhóm
mình vào tờ giấy A0 để treo lên và so sánh. |
Đại diện các nhóm học sinh báo cáo kết quả thí nghiệm của
nhóm mình, trả lời các câu hỏi của nhóm bạn. |
|
PHIẾU
TỔNG KẾT KIẾN THỨC |
|
|
Giáo viên phát cho học sinh phiếu tổng kết kiến thức.
Giao cho học sinh tiếp tục đề xuất phương án thí nghiệm để nghiệm lại công
thức tính lực đẩy Ác si mét và tìm cách làm cho quả bóng bàn lơ lửng trong
nước. |
Nhận các phiếu tổng kết kiến thức và dán vào vở thí
nghiệm. |
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Hương
Trà, Các kiểu tổ chức dạy học hiện đại trong dạy học Vật lí ở trường phổ
thông, NXBĐHSP, 2011.
2. Nguyễn Vinh Hiển, Hoạt động quan sát và thí nghiệm trong dạy và học thực
vật học ở trung học cơ sở, NXBGD, 2006.
3. Nguyễn Xuân Thành (chủ biên), Nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học
và tài liệu bổ trợ trong phương pháp dạy học tích cực, Tài liệu tập huấn
giáo viên, Dự án giáo dục THCS vùng khó khăn nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
2011.
4. Bùi Phương Nga (chủ biên), Học tích cực, Tài liệu tập huấn giáo viên,
Dự án giáo dục THCS vùng khó khăn nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2011.
![]()