Tiêu
chảy là đi ngoài phân lỏng hoặc tóe nước trên 3 lần trong 24 giờ.
1.1. Bệnh tiêu chảy cấp
Tác hại của bệnh tiêu chảy
+ Mất
nước, mất natri.
+
Nhiễm toan chuyển hóa: Do mất nhiều bicarbonat trong phân, gây suy giảm chức
năng thận, nhanh chóng dẫn tới nhiễm toan.
+ Thiếu
kali: Do mất ion kali trong phân khi bị tiêu chảy; ở trẻ suy dinh dưỡng, thường
chướng bụng, liệt ruột cơ năng, loạn nhịp, nhược cơ toàn thân.
- Gây suy dinh dưỡng ảnh hưởng tới sự tăng trưởng.
Câu hỏi:
2. Vì sao tiêu chảy có thể gây tử vong cho trẻ?
Nguyên nhân
* Ăn uống:
-
Do mẹ thiếu sữa hoặc cai sữa sớm nên trẻ ăn thức ăn không hợp với tuổi.
- Dinh dưỡng không tốt nên dẫn đến tiêu chảy.
*
Nhiễm khuẩn:
- Do virut: virut Rota
- Do vi khuẩn
+ Do nhiễm khuẩn tại ruột: như
E. coli, trực khuẩn lị, phẩy khuẩn tả, trực khuẩn thương hàn. Các vi khuẩn lây
nhiễm qua đường thức ăn, nước uống và các dụng cụ cho trẻ ăn, uống. Lây qua bàn
tay bẩn ở người phục vụ trẻ.
+ Do nhiễm khuẩn ngoài đường
ruột: trẻ bị nhiễm sau khi mắc các bệnh nhiễm khuẩn như nhiễm khuẩn hô hấp cấp
tính, viêm tai giữa, viêm phổi, sởi,...
+ Do kí sinh trùng (amip)
* Yếu
tố thuận lợi cho sự phát triển của bệnh
- Do môi trường vệ sinh kém, khí hậu nóng tạo điều kiện cho các vi sinh vật
phát triển gây bệnh.
- Trẻ bị suy dinh dưỡng dễ mắc tiêu chảy, các đợt tiêu chảy kéo dài hơn, dễ
bị tử vong hơn, nhất là ở những trẻ bị suy dinh dưỡng nặng.
- Trẻ dưới 2 tuổi, nhất là trẻ từ 6 tháng
đến 12 tháng hay bị bệnh.
1. Nguyên nhân nào trẻ bị tiêu chảy?
2. Vì sao trẻ từ 6- 12 tháng hay bị bệnh?
Triệu chứng của bệnh
* Hệ tiêu hóa
-
Tiêu chảy xuất hiện đột ngột: đại
tiện phân lỏng, nhiều nước, số lần đại tiện nhiều hơn bình thường,
-
Nôn: thường xuất hiện đầu tiên trong trường hợp tiêu chảy do virut rota hoặc do
tự cầu. Làm mất nhiều nước và điện giải.
-
Biếng ăn.
Trong tiêu chảy
kéo dài, trẻ đại tiện phân lỏng từ 2 tuần trở lên thường dẫn đến suy dinh dưỡng.
* Hệ thần kinh: Trẻ quấy khóc, vật vã, co giật, có khi mệt lả, li bì
hôn mê; có thể sốt cao.
* Dấu hiệu mất nước: Mất nước là triệu chứng quan trọng vì đó là nguyên
nhân gây tử vong ở trẻ. Vì vậy, khi trẻ tiêu chảy cần phải đánh giá tình trạng
mất nước.
-
Mất nước nhẹ : Cân nặng của trẻ mất
dưới 5% trọng lượng cơ thể, trẻ chưa khát nước, quấy khóc.
-
Mất nước vừa : Cân nặng của trẻ
giảm từ 5 - 9% trọng lượng cơ thể, trẻ khát nhiều, vật vã, mắt trũng, miệng
khô, môi se, khóc không có nước mắt, nhịp thở nhanh, mạch nhanh, da mất đàn
hồi.
- Mất nước nặng : Cân nặng mất trên 10% trọng lượng cơ thể, khát nước nhiều, lờ đờ, mệt mỏi, thóp trũng, môi se, miệng khô, khóc không có nước mắt, da mất đàn hồi, nước tiểu ít, mạch nhanh nhỏ, huyết áp hạ.
BẢNG ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG MẤT NƯỚC THEO TỔ CHỨC Y TẾ THẾ GIỚI
DẤU HIỆU
|
MẤT NƯỚC ĐỘ A
|
MẤT NƯỚC ĐỘ B
|
MẤT NƯỚC ĐỘ C
|
Nhìn
Toàn trạng
Mắt (thóp)
Nước mắt
Miệng lưỡi
Khát
|
Tốt, tỉnh táo (+)
Bình thường
Có
Ướt
Không khát, uống bình thường (+)
|
Vật vã, kích thích (+)
Trũng
Không có
Khô
Khát, uống háo hức (+)
|
Mệt lả, li bì, hôn mê (+)
Rất trũng
Không có
Rất khô
Uống kém hoặc không uống được (+)
|
Sờ véo da
|
Nếp véo da mất nhanh.
|
Nếp véo da mất chậm (+)
|
Nếp véo da mất chậm (+)
|
Kết luận
|
Bệnh nhi không có dấu hiệu mất nước.
|
Nếu có 2 dấu hiệu trở lên, trong đó có ít nhất 1 dấu hiệu (+) là mất nước nhẹ hoặc trung bình.
|
Nếu có 2 dấu hiệu trở lên, trong đó có ít nhất 1 dấu hiệu (+) là mất nước nặng.
|
Điều trị
|
Sử dụng phác đồ điều trị A
|
Cân bệnh nhi, sử dụng phác đồ điều trị B.
|
Cân bệnh nhi. sử dụng phác đồ điều trị C.
|
Câu hỏi
1. Nêu các triệu chứng của tiêu chảy?
2. Trong các triệu chứng trên, triệu chứng nào là quan trọng của
bệnh?
Điều trị
- Điều trị mất nước và điện giải:
Mục đích là bù lượng nước và điện giải mất do bệnh gây ra, cung cấp lượng đang tiếp tục mất nước và cung cấp nước, điện giải theo nhu cầu sinh lí bình thường. Có thể sử dụng phương pháp đưa nước và điện giải vào cơ thể bằng đường uống và truyền tĩnh mạch.
Ở gia đình và các trường mầm non, nơi chăm sóc trẻ hằng ngày, khi
phát hiện trẻ tiêu chảy thì phương pháp tốt nhất là cho trẻ uống nhiều nước hơn bình thường. Dung
dịch tốt nhất dùng cho trẻ là Oresol hoặc nước cháo, muối cho trẻ uống.
- Chế độ dinh dưỡng:
+ Cần
cho trẻ tiếp tục ăn.
+ Trẻ
đang bú mẹ thì vẫn cho bú bình thường.
+ Trẻ
ăn sữa bò nên pha loãng sữa với nước cháo, số lần ăn tăng hơn bình thường.
+ Trẻ ăn thức ăn bổ sung nên ăn lỏng, nấu nhừ,
đủ chất dinh dưỡng.
Chú ý không dùng nước cháo thay thế bữa ăn
- Thuốc dùng trong tiêu chảy: chỉ dùng thuốc kháng sinh trong các trường hợp nhiễm
trùng;
1. Khi trẻ bị tiêu chảy cần điều trị như thế nào?
2- Khi phát hiện trẻ bị tiêu chảy có nên cho trẻ uống thuốc cầm tiêu
chảy không? Khi nào thì cho trẻ uống kháng sinh? Vì sao?
3- Chế độ dinh dưỡng cho trẻ bị bệnh tiêu chảy như thế nào?
Phòng bệnh
- Vệ sinh ăn uống
Phải đảm bảo vệ sinh trong ăn uống, vệ sinh thực phẩm, vệ sinh bếp ăn: bếp
ăn một chiều, tránh nhiễm khuẩn khi nấu thức ăn cho trẻ. Vệ sinh các đồ dùng ăn
uống như thìa, cốc, bát,... và phải được tráng nước sôi trước khi ăn, thức ăn
không được để ở môi trường không khí lâu không đậy. Phải thường xuyên rửa tay
cho trẻ: trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh và sau khi chơi, móng tay cắt ngắn.
Không cho trẻ ăn những thức ăn chưa chín, thức ăn bị ôi thiu. Rau quả tươi cho
trẻ ăn phải rửa sạch, gọt, bóc vỏ. Nước uống phải sôi, sạch, nhất là mùa hè.
- Vệ sinh môi trường (xử lý phân, nước, rác)
Khi có trẻ bị tiêu chảy phải xử lý
phân hợp lý, tránh lây lan ra các cháu khác
- Diệt ruồi, nhặng, không dùng phân tươi để bón cây.
- Tiêm phòng
Tất cả trẻ em đều được tiêm phòng theo lịch, nhất là dịch sởi vì trong khi
bị sởi trẻ có thể bị tiêu chảy.
Ngoài ra, cần phải điều trị các ổ nhiễm khuẩn khác có thể đưa đến tiêu chảy
như viêm phổi ; viêm mũi họng ; viêm tai giữa.
Nêu biện pháp phòng bệnh tiêu chảy cho trẻ em. Có thể tiêm phòng cho trẻ những bệnh nào để phòng tiêu chảy ở trẻ?
Chương trình phòng chống tiêu chảy
Nhận rõ mối nguy hại của bệnh tiêu chảy, WHO đề ra "Chương trình chống
bệnh tiêu chảy" giúp các nước nghiên cứu và thực hiện. Mục tiêu của chương
trình đặt ra cho đến năm 2000 sẽ giảm được 50% tỷ lệ chết do tiêu chảy so với
năm 1990.
Ở Viêt Nam, chương trình được triển khai từ năm 1982 tại 4 tỉnh và được mở
rộng hằng năm. Đến năm 1992, chương trình được triển khai trong toàn quốc. Các
hoạt động tuyên truyền, kiểm tra giám sát được đẩy mạnh. Đặc biệt trong năm
1990 và 1991 các tài liệu của chương trình được biên soạn và đưa vào chương trình
giảng dạy chính khóa của các trường trung học và cao đẳng sư phạm nhà trẻ mẫu
giáo. Ngoài ra, chương trình còn mở thêm các lớp huấn luyện xuống đến tuyến
huyện, tuyến xã. Tài liệu huấn luyện và tuyên truyền đã được in ấn và phát hành
rộng rãi.
Kết quả hoạt động của "Chương trình chống bệnh tiêu chảy" trong
những năm qua là đã giảm được tỷ lệ bệnh nhân vào viện và giảm tỷ lệ tử vong do
tiêu chảy so với tỷ lệ tử vong chung của trẻ dưới 5 tuổi vào viện. Đồng thời
thay đổi được tập quán không tốt trong chăm sóc trẻ bị tiêu chảy (việc bắt trẻ
nhịn ăn khi tiêu chảy) và việc sử dụng các phương pháp bù dịch bằng đường uống
tại cộng đồng. Đây là một chương trình quốc gia hoạt động có hiệu quả. Tuy
nhiên, chất lượng triển khai của các nơi chưa đồng đều, đặc biệt còn khó khăn ở
vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên.
HƯỚNG DẪN CÁCH PHA VÀ SỬ DỤNG ORESOL HOẶC NƯỚC CHÁO MUỐI
Một gói Oresol gồm có :
-
Cloruanatri 3,5g
-
Bicarbonat
natri 2,5g
-
Glucose 20g
-
Kaliclorua 1,5g.
Một gói bột Oresol pha với 1 lít nước sôi để nguội,
uống trong 24 giờ, nước còn đổ đi pha gói khác cho trẻ uống tiếp. Lượng nước
uống tùy theo lứa tuổi và tình trạng mất nước của trẻ. Nếu chưa có Oresol thì
dùng nước cháo muối cho trẻ uống.
Nước cháo muối gồm 30g bột gạo tẻ (5 thìa canh), 3,5g
muối (1 thìa cà phê), 1 lít nước, đun sôi 4 - 5 phút. Hoặc 50g gạo tẻ (1 nắm) +
3,5g muối (1 nhúm) + 6 bát nước, đun nhỏ cho nhừ hạt gạo, chắt đủ 5 bát ; 1 lít
nước cháo này cho cho 175 kcal và chất dinh dưỡng cho trẻ.
-
Cách cho uống
Oresol :
+ Có thể cho uống bằng thìa và cốc.
+ Đối với trẻ nhỏ, nếu ỉa chảy nhẹ cho uống 50ml/1kg
cân nặng trong 4 giờ đầu ; mất nước vừa cho uống 100ml/1kg trong 4 giờ đầu.
Trẻ lớn và người lớn cho uống theo nhu cầu.
Cần kiên trì cho uống từng thìa, uống đủ số lượng. Khi
cho trẻ uống phải theo dõi số lần đại tiên và tính chất của phân, nếu thấy tình
trạng mất nước tăng lên phải đưa trẻ đến cơ sở y tế ngay, khi các triêu chứng
giảm đi thì tiếp tục cho uống đến khỏi.