HOẠT ĐỘNG ĐỌC HIỂU
2.2.1. Chậm phát triển trí tuệ
Chậm phát triển trí tuệ chiếm khoảng từ 1 đến 3% dân số, do nhiều nguyên nhân, có cả những nguyên nhân chưa rõ ràng, nhất là ở chậm nhẹ.
2.2.1.1. Những nguyên nhân chính của chậm phát triển trí tuệ
Có nhiều giả thuyết khác nhau về nguyên nhân dẫn đến rối loạn chậm phát triển trí tuệ. Có những giả thuyết cho rằng, rối loạn xuất phát từ môi trường nuôi dạy của trẻ. Tuy nhiên, cũng có nhiều giả thuyết khác khẳng định những bất thường trong não bộ, hệ thống hóa sinh, di truyền gây ra rối loạn phát triển…
Những nguyên nhân chính của chậm phát triển trí tuệ: Những nguyên nhân trước khi sinh, có nguồn gốc di truyền; Những nguyên nhân trước khi sinh, có nguồn gốc bên ngoài; Dị tật không rõ nguồn gốc; Nguyên nhân chu sinh; Nguyên nhân sau khi sinh; Không rõ nguyên nhân. Ngoài những nguyên nhân chính kể trên, còn có những nguyên nhân di truyền và mắc phải khác của chậm phát triển trí tuệ.
2.2.1.2. Hội chứng Down
Hội chứng Down hay hội chứng 3 nhiễm sắc thể 21 hoặc hội chứng Mongolism là hội chứng chậm khôn do lệch lạc nhiễm sắc thể thường gặp nhất. Tỉ lệ xuất hiện là khoảng 1/700 trẻ sinh ra. Yếu tố về tuổi của cha mẹ được lưu ý nhiều nhất: trước 30 tuổi nguy cơ mắc là 1 trẻ/3000 cháu, từ 35 đến 39 là 4/1000, sau 45 tuổi là 1/50. Trong số những trẻ em có chỉ số khôn (IQ) nhỏ hơn hoặc bằng 65, trẻ mắc chứng Down chiếm khoảng 19%.
Những đặc điểm phát triển về tâm vận động, nhận thức và tình cảm của trẻ mắc hội chứng Down được mô tả sau đây là những nét chung, trên cơ sở đó tùy vào hoàn cảnh sống riêng của từng trẻ, mà các đặc điểm này sẽ có sắc thái khác nhau. Có 3 dạng Down cơ bản: Dạng tam bội, Dạng khảm và Dạng sai vị trí.
a) Phát triển tâm vận động
Nhìn chung sự phát triển tâm vận động chậm, bao giờ cũng có tình trạng giảm trương lực cơ và co giãn thái quá dây chằng. Khi còn nhỏ trẻ là những đứa bé bình tĩnh, yên lặng, ít khóc, thích được cưng chiều, ngủ nhiều, lặng lẽ suốt ngày, có thể không hoạt động trong nhiều giờ mà không đòi hỏi gì. Trẻ thụ động, chậm chạp và lì nhưng lại rất tình cảm đối với mẹ. Biết đi trong khoảng từ 2 đến 3 tuổi. Biết nói khoảng 4 - 5 tuổi, ngôn ngữ phát triển khá nhanh nhưng cũng nhanh chóng dừng lại ở một mức độ nhất định. Có rối loạn nói rành mạch, nói lắp khá thường xuyên. Về quan hệ tình cảm: trẻ thích những quan hệ tay đôi, có những đòi hỏi mang tính thoái lùi, đặc biệt là có nhu cầu về ban thưởng bằng hôn hoặc mơn trớn môi miệng.
Từ 6 - 7 tuổi trở đi, tình trạng bất ổn càng ngày càng rõ, cả về vận động (không ngồi yên một chỗ, nhăn nhó mặt...), cả về trí tuệ (thay đổi hoạt động, kém chú ý) và về tình cảm (thay đổi đột ngột tính khí). Tình trạng không ổn định này tương phản rõ rệt với tình trạng thụ động ở giai đoạn trước và thường là nguồn gốc của khó khăn hòa nhập vào nhóm bạn và đối kháng với gia đình.
b) Phát triển về nhận thức
Chậm phát triển về trí tuệ, mỗi trẻ có mức độ khác nhau. Nghiên cứu trên nhiều trẻ Down cho thấy đồ thị phân bố chỉ số khôn tương tự như ở trẻ em bình thường. Tuy nhiên trẻ Down tài năng nhất chỉ số khôn chỉ là 70, thấp nhất có thể dưới 20 và trung bình là 40 - 45. Độ phân tán kết quả yếu cả ở thang lời lẫn thang làm khi cho trẻ làm test WISC.
Với trẻ này, cần có tác động về sư phạm nhưng hiệu quả cũng chỉ giới hạn ở mức độ nhất định. Kể cả được dạy dỗ trẻ chỉ đọc được ở mức sơ đẳng, tính toán đơn giản (chủ yếu là phép cộng). Rất hiếm trẻ vượt qua được mức này và thường là trẻ không có những thao tác tư duy logic. Những đặc điểm này cho thấy tình trạng tiến triển của trẻ Down: có thể học được không chỉ giới hạn ở một mức nhất định. Chúng là những đứa trẻ rất nhạy với sự điều kiện hóa, nhất là khi được thưởng (tình cảm, thức ăn hoặc phần thưởng khác). Trong những hoàn cảnh dạy dỗ được điều kiện hóa như thế trẻ có thể đạt được những kết quả đáng ngạc nhiên.
c) Phát triển về tình cảm
Từ 6 - 7 tuổi trở đi, ứng xử của trẻ thay đổi. Trẻ thường là đứa trẻ vui vẻ, có đôi chút hề, hay bắt chước người khác, có nhu cầu tiếp xúc về cơ thể, cởi mở, thích những trò chơi mà trẻ dễ nắm được luật chơi. Thường thấy trẻ thích âm nhạc, chủ yếu là đối với giai điệu và đi kèm với có tiếp xúc thoái lùi với mẹ. Trẻ háu ăn và thường hay béo phì. Trẻ rất nhạy cảm với việc bị bỏ rơi và do đó dễ trở nên chống đối một cách có chủ ý, cứng đầu, hay dỗi và cáu giận. Từ 12 - 13 tuổi trở đi ở một số trẻ đặc điểm này ngày càng mạnh. Trẻ khó chấp nhận hẫng hụt và có hành vi thoái lùi dưới hình thức một đòi hỏi tình cảm, tìm kiếm một phần thưởng môi miệng hoặc trái lại có phản ứng cáu giận.
d) Những điều giáo viên cần lưu ý trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ Down
Cân nhắc về mức độ phát triển khả năng học tập của trẻ Down; Có những kỳ vọng về hành vi giống như những trẻ khác; Trong lớp các em cần có thêm sự hỗ trợ của nhóm bạn; Trực quan hoá về những tình huống học tập; Khả năng ghi nhớ của trẻ Down không tốt; Trẻ Down cũng là nhóm trẻ có khả năng chú ý thấp; Môi trường học tập có thể hạn chế khả năng tiếp nhận thông tin của trẻ từ các hình ảnh trực quan; Sắp xếp chỗ ngồi, do trẻ Down.
Phát triển ngôn ngữ và giao tiếp; Phát triển các kỹ năng tự phục vụ; Phát triển kỹ năng vận động thô và vận động tinh.
2.2.1.3. Dạng chậm phát triển tâm thần do thiểu năng tuyến giáp
a) Nguyên nhân
Bệnh phát sinh khi trẻ còn trong thời kỳ bào thai hay 2-3 năm đầu sau sinh, khi mang thai cơ thể người mẹ thiếu I ốt, gây những lệch lạc về phát triển của hệ thần kinh trung ương dẫn đến tình trạng chậm khôn.
b) Những biểu hiện của bệnh
Tâm vận động: trẻ phát triển chậm, đi đứng chậm chạp, vụng về. Ngôn ngữ: nếu chậm khôn nhẹ, trẻ nó được, chậm khôn vừa và nặng trẻ nói chậm, không nói được hoặc nói ngọng. Khả năng tính toán, học tập, lao động kém, hay buồn ngủ, khó tiếp thu cái mới. Tình cảm mang tính chất cụ thể, cứng nhắc, thiếu tế nhị. Phù niêm: khi bị nặng từ 1-1,5 tuổi, trẻ chậm lớn, không ngồi, đứng được, mí mắt xệ, môi dày, lưỡi to, cổ ngắn…trán thấp, gốc mũi sập, 5-6 tuổi mới biết đi. Hệ xương chậm phát triển, người lùn, tay chân ngắn, cốt hóa các đầu xương.
Các biểu hiện khác: Bộ máy sinh dục chậm phát triển; Chỉ số khôn trên dưới 70; Có bướu cổ từ 50-90%.
c) Phòng và chữa chậm khôn thiểu năng tuyến giáp
Sử dụng muối I ốt trong chế biến thức ăn. Ngay từ khi các bà mẹ mang thai cần được bổ sung I ốt nhiều hơn và khi đứa trẻ mới ra đời.
2.2.2. Những biểu hiện nhiễu tâm
2.2.2.1. Ám sợ
a) Mô tả
Triệu chứng chính của nhiễu tâm ám sợ là cảm thấy sợ dữ dội, mãnh liệt đối với đối tượng hoặc tình huống mà bản thân chúng không có bất cứ sự nguy hiểm thật sự nào. Cơn lo sợ cao độ có những dấu hiệu sau: Dấu hiệu về cơ thể: hồi hộp, đánh trống ngực, tim đập nhanh, cảm giác ngẹt thở, đau ngực, đau bụng, buồn nôn...; Dấu hiệu về thần kinh: run, lắc cơ, chóng mặt, khó chịu; Dấu hiệu về vận động: kích động hoặc mệt mỏi; Dấu hiệu vận mạch: vã mồ hôi, cơn nóng nực hoặc rùng mình; Những dấu hiệu tâm lý: cảm giác xa lạ, mất phương hướng, sợ chết, điên rồ.
b) Tiến triển
Ám sợ có liên quan tới nhiễu tâm trẻ em thường tồn tại trong một thời gian ngắn nếu cha mẹ có thái độ thông hiểu mà không quá dễ dãi. Phần lớn ám sợ giảm bớt lúc khoảng 7 - 8 tuổi, ít nhất là về vẻ bên ngoài. Tuy nhiên nó có thể kéo dài một hoặc hai năm và mất dần đi. Một số ám sợ kéo dài hơn dường như là do hành vi nhiễu tâm của cha hoặc mẹ. Ám sợ thường được để ý đến khi nó đi kèm với những rối loạn khác (thay đổi tính cách, thoái lui). Cũng có trường hợp có loạn tâm tiến triển.
c) Chữa trị
Ám sợ của trẻ em không phải bao giờ cũng cần chữa trị. Nếu như triệu chứng tồn tại hơn một tháng thì có thể sử dụng một trị liệu tâm lý ngắn hoặc những tư vấn theo yêu cầu.
Liệu pháp hành vi cho kết quả tốt đối với những ám sợ của người lớn nhưng cần thận trọng và có kinh nghiệm khi ứng dụng vào trẻ em.
2.2.2.2. Ám sợ trường học
a) Mô tả
Ám sợ trường học khác với những lo hãi chia ly ở trẻ nhỏ lần đầu đến trường. Ám sợ này là một sợ hãi đặc biệt đối với hoàn cảnh trường học trong khi trẻ tỏ ra có khả năng chịu đựng những chia ly ở hoàn cảnh khác.
Thường gặp nhất là trẻ biểu hiện sự sợ hãi đặc biệt khi ở giữa những đứa trẻ khác ví dụ trong giờ chơi. Trẻ không thiết lập bất cứ một tiếp xúc nào với các bạn và có thái độ hung hăng và không thích hợp. Một số trường hợp thì chính quan hệ với cô giáo hoặc là một hình thức học tập nào đó là nguyên nhân gây ra nỗi sợ hãi của trẻ.
b) Chữa trị
Ám sợ trường học có thể được giảm đi một cách tự nhiên hoặc nhờ một trị liệu ngắn. Tuy vậy, một số trẻ sau này vẫn có những biểu hiện nhiễu tâm khác. Có thể dùng các phương pháp đo lường tâm lý và trắc nghiệm phóng chiếu để tìm hiểu nguồn gốc của những ức chế trường học ở trẻ em. Nếu gia đình trẻ có mâu thuẫn, xung đột hoặc chia rẽ thì việc chữa trị cần phải chú ý đến cả mặt này.
2.2.2.3. Những nét ám ảnh (rối nhiễu ám ảnh cưỡng bức)
a) Mô tả
- Triệu chứng: Có thể có các ám ảnh nhưng không mang tính cưỡng bức. Suy nghĩ bị xâm lấn bởi các cảm xúc, lo lắng. Những ý nghĩ được gọi là ám ảnh bao vây ý thức của chủ thể. Nội dung của những ý nghĩ này đôi khi không phù hợp và tầm thường gây ra tình cảm xấu hổ và mặc cảm tội lỗi. Để đấu tranh chống lại những suy nghĩ có tính ám ảnh này, người bệnh tìm những cách riêng để chuyển hướng chú ý như đọc thầm, đái dầm, tính toán... Những cách thức này cũng mang tính ám ảnh và trở thành mối quan tâm có tính ám ảnh mới thay thế cho cái ban đầu.
- Đặc điểm về tính cách. Những đặc điểm tính cách sau đây không phải lúc nào cũng biểu hiện ở trẻ em: tiết kiệm, hay nghi ngờ dẫn đến sự phân vân thiếu quả quyết; tỉ mi, tôn trọng nghiêm túc các trật tự và quy định; bướng bỉnh, cứng đầu, cầu toàn, kỹ lưỡng quá mức; kiểm soát cảm xúc một cách thái quá. Thường xuyên nhất là trẻ ám ảnh có vẻ nghiêm nghị và lo lắng, bị những đấu tranh nội tâm xâm chiếm; thường thể hiện trạng thái tâm lý khổ sở.
b) Chữa trị
Ám ảnh có thể chữa trị bằng phân tích tâm lý và có thể phải chữa trị trong một thời gian dài. Tuy nhiên hay có tiến triển lặp lại sau một ít tháng. Trị liệu về hành vi cũng có thể được sử dụng cho trẻ em. Những thuốc chống trầm cảm cũng có hiệu quả đối với ám ảnh - cưỡng bức mặc dù không có bất kỳ trầm cảm nào là nguyên nhân. Hiệu quả này cho thấy có rối loạn về chuyển hóa sérotonine trong nhiễu tâm ám ảnh.
2.2.2.4. Ảnh hưởng của nhiễu tâm đến học tập
Nhiễu tâm làm tăng lo hãi, ảnh hưởng đến khả năng học tập của trẻ em và đến sự phát triển nhận thức nói chung của trẻ. Những dồn nén gia tăng có thể làm nghèo nàn tư duy và các chức năng sáng tạo. Trí tuệ bị ức chế lý do đôi khi chỉ vì do nhiễu tâm.
Nhiễu tâm cũng có thể gây ra một số rối loạn về trí nhớ. Một số hình thức ức chế hoạt động tâm trí cũng được thấy ở những trẻ bị ngược đãi và nạn nhân của lạm dụng tình dục.
2.2.3. Trầm cảm ở trẻ em
2.2.3.1. Đặc điểm gia đình trẻ trầm cảm
Thường thấy có cha, mẹ hoặc một người thân trong gia đình có tang trong những năm đầu đời của trẻ. Cha mẹ, nhất là mẹ, thường trầm cảm. Cũng có những cha mẹ biểu hiện sự chán nản và cảm thấy bị lừa dối khi có đứa con không như họ mong muốn.
2.2.3.2. Triệu chứng
Những triệu chứng cơ bản là buồn bã và có tính cách loạn cảm có tính chủ quan như tự hạ mình, mặc cảm tội lỗi và lo hãi. Trẻ không thể hiện sự dễ chịu và thường là không ý thức được về tình trạng buồn bã của mình.
a) Ở trẻ nhỏ (cho đến 24 - 30 tháng)
Trẻ mệt mỏi, ủ rũ, thiếu sức sống, đơn độc, có vẻ dửng dưng với xung quanh và thu mình. Không có biểu hiện bi bô của trẻ nhỏ, không chơi với bàn tay hoặc xúc xắc, không tò mò khám phá... Trái lại trẻ thường xuyên tự kích thích như đu đưa thân thể, rên rỉ. Những tự kích thích này có thể dẫn đến những hành vi hung tính với bản thân. Phát triển về tâm vận động chậm: chậm ngồi, chậm đi. Thường trẻ này biết đi lúc khoảng 20 tháng. Chậm kiểm soát cơ thắt. Phát âm và phát triển ngôn ngữ luôn bị chậm và rối loạn. Về lâu dài, các triệu chứng có giảm nhẹ nhưng sự hình thành nhân cách của trẻ bị ảnh hưởng.
b) Ở trẻ từ 3 đến 6 tuổi
Tuổi này những biểu hiện về triệu chứng của trầm cảm rất khác nhau. Rối loạn hành vi hay gặp là thu mình, cô độc, yên lặng một cách thái quá, kích động, bất ổn nặng, có hành vi hung tính, hành vi tự kích thích kéo dài, đặc biệt là hành vi thủ dâm mãn tính và thúc ép. Cũng hay có tình trạng nhầm lẫn trạng thái tình cảm, từ chối quan hệ, cáu kỉnh và hung bạo. Đôi khi có thay đổi tính khí luân phiên: có trạng thái kích động khoái cảm rồi sau đó lặng lẽ khóc.
Những khả năng xã hội thông thường nhìn chung bị rối loạn: không chơi với trẻ khác, không tự chủ được trong những sinh hoạt hàng ngày như đi vệ sinh, mặc quần áo. Thường có những rối loạn về thể chất: khó ngủ, thức giấc ban đêm, ác mộng, ngủ gật ban ngày, rối loạn sự ngon miệng, lúc thì chán ăn lúc thì háu ăn, đái dầm, ra đùn. Trẻ có thể nhạy cảm đặc biệt với sự chia ly, tăng cường tìm kiếm quan hệ, không ngừng tìm cách làm vui lòng người lớn. Thường có mặc cảm tội lỗi tưởng tượng và tìm cách làm cho người lớn trừng phạt nên bị coi là ngu ngốc.
2.2.3.3. Tiến triển
Trầm cảm ở trẻ em được giảm nhẹ chút ít một cách tự nhiên theo thời gian. Khác với tuổi thanh thiếu niên và người lớn, trầm cảm ở trẻ hiếm khi dẫn đến tự sát Những hành vi hung tính có thể trở thành kiểu tự vệ quen thuộc của trẻ, một hình thức tính cách che dấu trầm cảm. Kết quả nghiên cứu tiền sử bệnh trầm cảm ở người lớn và những nghiên cứu theo quá trình phát triển của trẻ chỉ ra rằng trầm cảm thường diễn ra trong suốt tuổi trẻ em cho tới tuổi thiếu niên và người lớn. Trầm cảm nặng của người mẹ thường là nguyên nhân của những trường hợp này.
2.2.3.4. Chữa trị
Chữa trị trầm cảm có thể là cho chính trẻ hoặc cả cho gia đình của trẻ. Sẽ thuận lợi hơn nếu tình trạng trầm cảm không kèm theo những rối loạn kiểu khác. Nếu trẻ trầm cảm mà lại có rối loạn như không ổn định tâm vận động, hung tính, cáu giận hoặc mất ngủ thì việc xác định tình trạng trầm cảm sẽ khó khăn hơn nhiều. Trường hợp này sự thể hiện tự nhiên bị giảm đi, đứa trẻ chơi ít, vẽ theo một kiểu... ít thể hiện những đặc điểm đặc trưng. Đánh giá tình trạng gia đình là rất quan trọng đối với việc chữa trị. Trầm cảm của cha hoặc mẹ, những chia ly trong gia đình, những xung đột... là nguyên nhân và đồng thời góp phần duy trì sự trầm cảm của trẻ.
Trị liệu tâm lý cho trẻ được sử dụng nhưng phải tùy thuộc vào độ tuổi và những điều kiện cụ thể của nhà trị liệu, điều kiện sống của trẻ. Cũng có thể dùng trị liệu về nhận thức, kịch tâm lý, hỗ trợ chữa trị lấy cơ thể làm trung gian. Đối với trẻ nhỏ, những giúp đỡ dành cho cha mẹ giữ vai trò rất quan trọng. Chữa trị cặp đôi mẹ và bé đặc biệt cần thiết và hiệu quả đối với trẻ từ 2 - 6 tuổi.
Trong trường hợp môi trường sống của trẻ có vấn đề (thiếu hụt nặng, cha mẹ chết, chia ly cha mẹ tạm thời, lo sợ bị bỏ rơi tưởng tượng...), là nguyên nhân của trầm cảm của trẻ thì phải tùy thuộc vào từng trường hợp để xử lý. Lúc này can thiệp chữa trị nhằm mục đích thay đổi cho tốt hơn quan hệ mẹ và bé hoặc tạo cho trẻ một môi trường tốt hơn ngoài gia đình. Thuốc rất hiếm khi được dùng và chỉ dùng cho những bệnh rất nặng trong một thời gian ngắn.
2.2.4. Rối loạn tự kỷ
2.2.4.1. Khái niệm
Theo cách phân loại CIM-10, DSM-IV tự kỷ thuộc vào những rối loạn phát triển lan tỏa. Tự kỷ luôn có những đặc điểm sau: Bất thường về khả năng giao tiếp. Bất thường trong quan hệ tương tác xã hội. Hành vi, hứng thú, hoạt động lặp lại và định hình.
Được biểu hiện rõ từ 30 - 36 tháng nhưng những dấu hiệu ban đầu có thể được nhận thấy ngay trong năm đầu tiên. Tỉ lệ mắc trung bình là 5/10.000 trẻ (Fombonne, 1995) và tỉ lệ trai gái là 3/1. Trong số các trẻ mắc tự kỷ chỉ có khoảng có chỉ số khôn (IQ) lớn hơn hoặc bằng 70, 2/3 chậm trí tuệ vừa và nặng (IQ < 50).
2.2.4.2. Mô tả lâm sàng
a) Hội chứng tự kỷ điển hình
Được hình thành dần dần, hội chứng biểu hiện rõ ràng lúc 2 -3 tuổi và có những đặc điểm đặc trưng sau:
- Rối loạn quan hệ: không có khả năng thiết lập các quan hệ. Suy giảm quan hệ tương tác xã hội làm cho trẻ đơn độc. Trẻ từ chối hoặc trốn tiếp xúc bằng mắt, thiếu biểu hiện bằng nét mặt và không trao đổi bằng điệu bộ cử chỉ, không có sự tiếp xúc và trao đổi bằng trương lực cơ. Trẻ không tìm cách để giao tiếp, không tìm cách để làm cho người khác chú ý, không dõi theo bằng mắt, không bắt chước. Trẻ không biểu lộ sự hài lòng, vui thích, không chia sẻ sự quan tâm hứng thú, không có hành động chỉ chỏ mà dùng người khác như là một phần của cơ thể mình, ví dụ không chỉ vào các đồ vật muốn lấy mà kéo người lớn đến nơi lấy. Trẻ nhìn trống rỗng, xa lạ, dửng dưng.
- Rối loạn giao tiếp và ngôn ngữ. Ngôn ngữ không phát triển ở tuổi thông thường và cũng không có bất kỳ ý định giao tiếp bằng cử chỉ hoặc điệu bộ nào. Không chơi trò chơi đóng vai, trò chơi bắt chước. Khi có ngôn ngữ thì cũng có những khác biệt: không chỉ chậm mà còn có hiện tượng lặp lại lời người đối thoại như tiếng vang, âm điệu lời nói rất đơn điệu, giật cục, thiếu tự nhiên, lẫn lộn khi dùng đại từ nhân xưng, câu cú nghèo nàn, không biểu hiện cảm xúc. Nếu mức độ thông hiểu ngôn ngữ tốt hơn mức độ thể hiện ngôn ngữ thì vẫn có những bất thường: trẻ chủ yếu chỉ hiểu những từ cụ thể những câu đơn giản. Nếu người nói dùng ngôn ngữ phức tạp hơn như là dùng từ trừu tượng để chỉ cảm xúc, câu hài hước, phỏng vấn... sẽ làm trẻ lúng túng và từ chối giao tiếp.
- Cách phản ứng lạ và hứng thú bị hạn chế. Phản ứng lo hãi, hung tính hoặc giận dữ có thể xảy ra đột ngột nhân việc thay đổi môi trường (thay đổi đồ đạc trong phòng, thay đổi đường đi, mất đồ chơi, đổi kiểu tóc...) hoặc do trẻ bị bất ngờ (tiếng động bất ngờ, có người lạ...). Những biểu hiện giận dữ, lo hãi hoặc bất lực này cũng có thể là cách trẻ đáp lại hẫng hụt, cấm đoán hoặc lôi kéo người lớn giao tiếp.
- Cảm giác và vận động biến đổi. Có tình trạng giảm hoặc tăng phản ứng đối với những kích thích về giác quan ở nhiều trẻ tự kỷ, chúng hay làm những việc như: quay một đồ vật, đu đưa người, đập tay, xoay tròn, miệng và họng phát ra tiếng kêu, mút lưỡi... Ngược lại, trẻ lại thường dửng dưng với môi trường âm thanh, đặc biệt là âm thanh ngôn ngữ (không trả lời khi gọi tên) và thích thú với những tiếng động hoặc âm thanh đặc biệt như tiếng máy hút bụi, tiếng nước chảy, tiếng nhạc hoặc hát, tiếng giấy bị vò nhàu... Một số tiếng động làm trẻ hoảng sợ, kinh hãi, cáu giận chủ yếu do làm trẻ bị bất ngờ.
- Không chịu được thay đổi. Mối quan tâm lo lắng đáng kể của trẻ là tránh tất cả những thay đổi trong thu xếp đồ đạc, những biến đổi trong thói quen gia đình. Với trẻ bình thường những quy định, nghi thức đôi khi chỉ mang tính chất chơi thì lại có tầm quan trọng đặc biệt đối với trẻ tự kỷ, làm trẻ hoảng sợ nếu như có sự thay đổi. Những lối đi phải giống hệt nhau, các hoạt động phải được thực hiện theo đúng một trật tự. Một người lạ đến thăm có thể làm khởi phát những sợ hãi... Mọi thứ với trẻ phải không được thay đổi.
- Khả năng trí tuệ suy giảm. Trẻ tự kỷ thường có mức độ trí tuệ chung thấp hơn trẻ bình thường và trí tuệ không thuần nhất: mặt tri giác thị giác, tri giác không gian và trí nhớ thường tốt hơn khả năng suy luận và xử lý các thông tin. Phần lớn trẻ có mức trí làm thấp hơn 70 và mức trí tuệ chung thấp hơn 55 mặc dù cũng có trẻ tự kỷ trí tuệ bình thường. Thường có sự thiên lệch kết quả về phía thực nghiệm không dùng lời và mức độ không thuần nhất lớn.
b) Những biểu hiện ban đầu
- Giai đoạn từ 0 đến 6 tháng. Khác với những đứa trẻ khác, trẻ rất ngoan, không khóc, không bao giờ đòi hỏi. Bé dường như làm cho mọi người quên lãng. Trẻ thờ ơ không khóc khi mẹ hoặc người thân đi khỏi, cũng không có phản ứng gì khi có người khác lại gần. Có rối loạn trương lực dưới hình thức giảm trương lực, mềm nhẽo. Không có những biểu hiện của đối đáp trương lực khi 2 – 3 tháng, tức là không có sự đáp lại phù hợp đối với những tác động qua lại về mặt trương lực cơ khi được mẹ và người khác ôm ấp. Ngược lại, cũng có khi trẻ có thái độ căng cứng, tăng trương lực với những điệu bộ hoa chân múa tay không ngừng. Không có tư thế thích hợp, thỏa đáng khi được người khác ôm trong vòng tay. Hầu như không có những biểu hiện để người khác có thể dự đoán trước được về hành vi, cử chỉ.
- Giai đoạn từ 6 đến 12 tháng. Những biểu hiện đã có ở giai đoạn trước như đã nói ở trên ngày càng rõ và làm ảnh hưởng tới mối quan hệ qua lại giữa mẹ và bé. Sự thiếu đối đáp trương lực trở nên rõ rệt, trẻ không dang tay ra khi người khác ôm. Trẻ không biểu hiện thái độ bằng cử chỉ, nét mặt. Trẻ bị giảm trương lực, mềm nhẽo hoặc ngược lại là tăng trương lực, cứng đờ cùng với vẻ từ chối tiếp xúc khá rõ với người khác. Có những hoạt động rập khuôn, định hình và nhất là hoạt động này được trẻ làm một cách dai dẳng cả khi người lớn đến bên cạnh trẻ.
- Tình trạng sau 3 - 4 tuổi. Sau 3, 4 tuổi, biểu hiện lâm sàng dần dần thay đổi. Sự cô độc và thu mình của trẻ giảm đi, có những lúc nó cầu xin và bấu níu vào cha mẹ, nhưng cũng có lúc bất ngờ tránh xa. Cũng có một vài dấu hiệu về lo hãi chia ly nhưng không có biểu hiện xúc cảm thích hợp. Có thể trở nên hoạt bát, mạnh dạn, bất ổn định và bất ngờ lao vào nguy hiểm. Sự lặp lại lời người khác như tiếng vang vẫn còn. Đôi khi trẻ dùng một số từ và tìm cách giao tiếp. Có thể hứng thú đến mức say mê đối với một số tình huống hoặc đối tượng, nhưng cũng có những ám sợ tăng cường. Trẻ có thể bất ngờ có được một số hiểu biết đòi hỏi trí nhớ tốt, ví dụ như có trẻ nhớ được nhiều tên trong cuốn danh bạ.
2.2.4.3. Chữa trị
Chữa trị cho trẻ tự kỷ ngày nay rất được quan tâm. Có nhiều cách chữa trị tùy theo những hiểu biết khác nhau về nguyên nhân của tự kỷ. Tuy vậy có thể khái quát thành các hướng sau:
Phương pháp chữa trị về hành vi: Vận dụng lý thuyết về sự học nhờ điều kiện hóa (conditionnement opérant), làm ức chế những hành vi bệnh và làm phát triển ngôn ngữ. Cách làm này cũng đã đạt được một số kết quả tích cực nhưng hiệu quả giảm khi ngừng chữa trị, có thể được kết hợp với các biện pháp giáo dục.
Phương pháp giáo dục và sư phạm: Phối hợp giữa dạy chuyên biệt trong những lớp học dành riêng cho trẻ tự kỷ với những tác động giáo dục ở nhà do cha mẹ trẻ thực hiện. Cách làm này cần: đánh giá sự phát triển của trẻ thông qua một bảng tổng kê để tạo ra một chân dung tâm lý làm cơ sở cho việc giáo dục; nghiên cứu một kế hoạch giáo dục với những mục tiêu xác định cho nhà chuyên môn và cha mẹ. Vệc chữa trị cần căn cứ vào mức độ tiến triển, thiết lập mạng đánh giá với sự cộng tác của gia đình. Phương pháp này có lợi ở chỗ làm tăng đáng kể thời gian dành cho con em của cha mẹ. Cha mẹ có thể nhận ra một vài tiến bộ của trẻ và lấy lại hy vọng. Cũng có thể giáo dục hòa nhập trẻ tự kỷ trong những lớp dành cho trẻ bình thường.
Chữa trị về y học. Cần phải rất thận trọng, tuyệt đối không sử dụng thuốc hướng tâm cho trẻ em. Bệnh không thể chữa trị bằng thuốc, thuốc chỉ có thể dùng chút ít trong những trường hợp bị kích động nhiều, mất ngủ hoặc tự làm bản thân bị thương để giảm nhẹ những đau khổ cho trẻ và gia đình.
Tâm lý trị liệu phối hợp với giúp đỡ gia đình, tổ chức hoạt động tập thể cho trẻ và tạo điều kiện cho trẻ học tập cũng là một cách chữa trị.