Skip navigation

Bệnh suy dinh dưỡng

 

Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em trước tuổi đến trường, đặc bit trẻ dưới 3 tuổi là chỉ số nhạy cảm nhất về mức sống và sự phát triển của trẻ em. Ở các nước đang phát triển, trong đó có nước ta, suy dinh dưỡng đang là bnh chiếm tỷ lệ cao và mang tính chất xã hội. Những đánh giá gần đây cho thấy tỷ l suy dinh dưỡng (cân nặng/tuổi) của trẻ em dưới 5 tuổi là 33,8% ; 10% trẻ sơ sinh cân nặng dưới 2500 gam do bị thiếu dinh dưỡng ngay trong bụng mẹ (theo số liệu điều tra của Vin dinh dưỡng năm 2000). Ở nông thôn trẻ em bị suy dinh dưỡng cao hơn thành thị và min núi cao hơn đồng bằng. So sánh với các nước trong khu vực, Viêt Nam có tỷ l trẻ em suy dinh dưỡng cao nhất. Tỷ l suy dinh dưỡng cao và thường xuyên của trẻ em trước tuổi đến trường, đe dọa sự phát triển đầy đủ nguồn nhân lực của đất nước trong tương lai. Riêng với bản thân trẻ em, suy dinh dưỡng gây ra tình trạng cơ thể thp bé, nhẹ cân, hay ốm yếu, bệnh tật, đe dọa tử vong và có thể ảnh hưởng đến sự phát triển trí tu.

Nguyên nhân

Có nhiều nguyên nhân gây ra suy dinh dưỡng. Nhiều nghiên cứu ở các nước phát triển và ở nước ta cho thấy có các nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân sâu xa như sau :

-      Do việc chăm sóc bà mẹ khi có thai và khi cho con bú chưa tốt. Nguyên nhân sinh con thiếu tháng hoặc thiếu cân (dưới 2500 gam) là do người mẹ ăn uống kiêng khem trong thời kỳ mang thai. Bình thường trước khi sinh cơ thể người mẹ phải tăng được 12kg so với lúc chưa có thai (trong đó 3 tháng đầu chỉ tăng lên 1kg, 3 tháng sau tăng thêm 5kg và 3 tháng cuối tăng thêm 6kg). Nếu người mẹ ăn uống thiếu chất, 3 tháng cuối cân hầu như không tăng, trẻ sơ sinh bị suy dinh dưỡng ngay trong bụng mẹ. Sau khi sinh con, mẹ không được ăn uống đầy đủ nên sức khỏe yếu, thiếu sữa nuôi con. Ngoài ra, nhiều bà mẹ còn phải lao động nặng nhọc, tham công tiếc việc đến tận ngày ở cữ, ảnh hưởng đến sức khỏe và bào thai trong bụng mẹ.

-      Do sai lầm trong cách nuôi con như : không cho trẻ bú sữa non, không nuôi con bằng sữa mẹ, hoặc chưa tận dụng triệt để sữa mẹ để nuôi con trong 3 - 4 tháng đầu. Trẻ bị cai sữa mẹ sớm, hoặc ăn sam sớm và không đầy đủ về số lượng và chất lượng, khẩu phần mất cân đối, gây ra thiếu năng lượng, thiếu đạm và các vi lượng cần cho sự lớn và phát triển khỏe mạnh của trẻ (sắt, đồng, kẽm, iốt hoặc các vitamin A, vitamin D).

- Nhiều bà mẹ trẻ chưa được chuẩn bị đầy đủ kiến thức nuôi con. Các phong tục, tập quán, thói quen lạc hậu.

-      Do kết quả của các bệnh như tiêu chảy, viêm phổi, sởi, lao, giun, sốt rét,... gây rối loạn chuyển hóa các chất, trẻ biếng ăn, sụt cân. Suy dinh dưỡng là nguyên nhân thuận lợi cho các bệnh phát triển, ngược lại bệnh tật lại làm nặng thêm tình trạng suy dinh dưỡng.

-     Các nguyên nhân cơ bản khác có liên quan đến suy dinh dưỡng, đó là : trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội kém phát triển dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu. Tỷ lệ mù chữ cao đặc biệt ở phụ nữ, tỷ lệ sinh đẻ cao, thiếu nước sạch, môi trường ô nhiễm, phòng chữa bệnh yếu kém. Ngoài ra, thiên tai gây mất mùa, hậu quả chiến tranh cũng liên quan tới suy dinh dưỡng.

 

 

Câu hỏi gợi ý tìm hiểu bài

- Nguyên nhân nào gây suy dinh dưỡng ở trẻ?

Phân loại suy dinh dưỡng

Có nhiều cách phân loại suy dinh dưỡng : căn cứ vào chỉ tiêu cân nặng so với tuổi (cân/tuổi), chiều cao so với tuổi (cao/tuổi) hoặc cân nặng so với chiều cao (cân/cao) và so với chuẩn quy định. Ở các cơ sở y tế nhà trẻ, trường mẫu giáo nước ta hin nay thống nhất sử dụng cách phân loại của Tổ chức Y tế thế giới (WHO, năm 1981), đánh giá suy dinh dưỡng dựa vào tiêu chuẩn cân nặng theo tuổi, quần thể tham khảo là NCHS (National Center of Health Statistics).

-                  Suy dinh dưỡng độ 1 : Cân nặng dưới - 2SD đến - 3SD, tương đương với cân nặng còn 70- 80% so với cân nặng của trẻ bình thường.

-    Suy dinh dưỡng độ 2 : Cân nặng dưới - 3SD đến - 4SD, tương đương với cân nặng còn 60- 70%.

-                   Suy dinh dưỡng độ 3 : Cân nặng dưới - 4SD, tương đương với cân nặng còn dưới 60%.

    Hiện nay, người ta sử dụng "biểu đồ phát triển" để giúp các bà mẹ và cô bảo mẫu phát hiện và theo dõi suy dinh dưỡng ở trẻ. Trên biểu đồ có chia 4 kênh ký hiệu A, B, C và D căn cứ vào chỉ số nhạy nhất là cân/tuổi :

-    Kênh A : trẻ khỏe mạnh.

-    Kênh B : suy dinh dưỡng độ 1.

-    Kênh C : suy dinh dưỡng độ 2.

-     Kênh D : suy dinh dưỡng độ 3, trọng lượng giảm dưới 60%, trẻ gầy gò, da bọc xương, có thể có phù nề. Thông thường những trẻ này phải nằm viện vì mắc một chứng bệnh hiểm nghèo khác như viêm phổi, tiêu chảy mất nước, viêm loét giác mạc hoặc mù do thiếu vitamin A, hoặc có mảng thâm nhiễm lở loét trên da.

Câu hỏi gợi ý tìm hiểu bài

- Suy dinh dưỡng ở trẻ có mấy loại? Hãy trình bày cụ thể?

Các biểu hiện của suy dinh dưỡng

 

* Suy dinh dưỡng độ 1

- Cân nặng còn 70 - 80% (- 2SD đến - 3SD).

- Lớp mỡ dưới da bụng mỏng.

- Trẻ vẫn thèm ăn và chưa có biểu hiện rối loạn tiêu hóa.

* Suy dinh dưỡng vừa (độ 2)

- Cân nặng còn 60 - 70% (- 3SD đến - 4SD).

- Mất lớp mỡ dưới da bụng, mông, chi.

- Rối loạn tiêu hóa từng đợt.

- Trẻ có thể biếng ăn.

* Suy dinh dưỡng nặng (độ 3)

- Thể teo đét (Marasmus)

+ Cân nặng còn dưới 60% (- 4SD).

+ Trẻ gầy đét, da bọc xương, vẻ mặt như cụ già do mất toàn bộ lớp mỡ dưới da bụng, mông, chi và má.

+ Cơ nhão làm ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ.

+ Tinh thần mệt mỏi, ít phản ứng với ngoại cảnh, trẻ hay quấy khóc, không chịu chơi.

+ Trẻ có thể thèm ăn hoặc kém ăn, thường xuyên rối loạn tiêu hóa, ỉa lỏng, phân sống.

+ Gan hơi to hoặc bình thường.

- Thể phù (Kwashiorkor)

+ Cân nặng còn 60 - 80% (- 2SD đến - 4SD).

+ Trẻ phù từ chân đến mặt rồi phù toàn thân, phù trắng, mềm, ấn lõm.

+ Cơ nhẽo đôi khi che lấp do phù.

+ Lớp mỡ dưới da còn được giữ lại nhưng không chắc.

+ Da khô, trên da có thể xuất hiện những mảng sắc tố ở bẹn, đùi, tay, lúc đầu là những chấm đỏ rải rác lan dần rồi tụ lại thành những đám màu nâu sẫm, vài ngày sau bong ra để lại lớp da non, rỉ nước và dễ bị nhiễm khuẩn.

+ Tóc thưa dễ rụng có màu hung đỏ, móng tay mềm, dễ gãy.

+ Trẻ kém ăn, nôn trớ ; đi ngoài phân sống, lỏng và có nhầy mỡ.

+ Trẻ hay quấy khóc, kém vận động.

- Thể phối hợp (Marasmus - Kwashiorkor)

+ Cân nặng còn dưới 60% (- 4SD).

+ Trẻ phù nhưng cơ thể lại gầy đét, kém ăn và hay bị rối loạn tiêu hóa.

Các triệu chứng kèm theo trong suy dinh dưỡng nặng là thiếu máu, thiếu vitamin, đặc biệt là thiếu vitamin A có thể dẫn đến khô mắt gây mù lòa vĩnh viễn.

Câu hỏi gợi ý tìm hiểu bài

- Nêu các biểu hiện của suy dinh dưỡng?

Phòng bệnh và điều trị

* Phòng bệnh

- Trước hết, cần làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe người mẹ khi có thai và thời kỳ cho con bú.

- Đối với trẻ sau khi sinh có 4 biện pháp phòng bệnh trực tiếp đã được Tổ chức Y tế thế giới tổng kết và phổ biến :

+ Nuôi trẻ bằng sữa mẹ càng sớm càng tốt và kéo dài đến 2 tuổi. Cho con ăn sam đúng cách, đủ chất, đủ lượng và vệ sinh sạch sẽ.

+ Tiêm chủng đầy đủ các bệnh, đặc biệt sởi và lao.

+ Chữa khỏi bệnh kịp thời cho trẻ, nhất là đối với tiêu chảy, sởi và viêm phổi. Chú ý chăm sóc và tăng cường chế độ dinh dưỡng cho trẻ ốm.

+ Theo dõi cân nặng thường xuyên bằng biểu đồ phát triển để phát hiện kịp thời tình trạng suy dinh dưỡng và can thiệp sớm.

- Ba biện pháp phòng bệnh khác cần thực hiện đồng bộ đối với cộng đồng và gia đình, đó là :

+ Tuyên truyền, giáo dục dinh dưỡng cho các bà mẹ và phổ cập giáo dục cơ sở cho phụ nữ và trẻ em gái.

+ Thực hiện kế hoạch hóa gia đình.

+ Thực hiện ô dinh dưỡng gia đình, trường học, bao gồm cả ở nhà trẻ và mẫu giáo. Thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm.

* Điều trị:

 

- Trước hết cần chữa khỏi các bệnh trẻ đang mắc.

- Đối với suy dinh dưỡng nhẹ và trung bình, chủ yếu xem xét và điều chỉnh chế độ ăn hợp lý hoặc nâng khẩu phần ăn cả về số lượng và chất lượng, đa dạng hóa khẩu phần. Đối với trẻ nhỏ, bếp ăn còn quan trọng hơn cả tủ thuốc.

- Đối với suy dinh dưỡng thể nặng cần đưa đến bệnh viện hoặc trung tâm sức khỏe để kết hợp chữa các bệnh khác.

- Viêc phục hồi suy dinh dưỡng phải kiên trì.

Câu hỏi gợi ý tìm hiểu bài

- Làm gì để phòng bệnh suy dinh dưỡng ở trẻ?

- Nêu cách điều trị suy dinh dưỡng cho trẻ?

Made with eXeLearning (New Window)