Skip navigation

I. PHÒNG NGỪA RỐI LOẠN TÂM LÝ Ở TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON

HOẠT ĐỘNG ĐỌC HIỂU

Để có thể phòng ngừa xuất hiện ở trẻ em các rối loạn tâm lý, trước hết cần phải biết một số yếu tố nguy cơ dẫn đến rối loạn tâm lý ở trẻ.

3.1.1. Các yếu tố nguy cơ dẫn đến rối loạn tâm lý ở trẻ em

Gọi là những yếu tố nguy cơ tất cả những điều kiện, yếu tố có ở trẻ hoặc ở môi trường sống đưa đến nguy cơ mắc bệnh về tâm trí cao. Tóm tắt những yếu tố nguy cơ đó là:

- Về phía trẻ: tình trạng non nớt, chưa thành thục, sớm phải chịu đựng những khổ tâm, đẻ non, sinh đôi, có bệnh về cơ thể sớm, chia ly sớm, bệnh cơ thể mãn tính...

- Về phía gia đình: chia ly với cha mẹ, cha mẹ ly hôn, gia đình thường xuyên bất hòa, cha mẹ nghiện rượu, cha mẹ có bệnh mãn tính, chỉ có một cha hoặc mẹ, cha mẹ chết...

- Về xã hội: sự khốn khó về kinh tế - xã hội, hoàn cảnh di cư...

Những yếu tố trên có thể không độc lập mà kết hợp lại với nhau và gây hậu quả mạnh hơn. Ví dụ, sự khốn khó về kinh tế - xã hội đi kèm với chưa thành thục dễ làm trẻ mắc bệnh tâm trí hơn là chỉ một yếu tố.

Tuy nhiên, bản chất của những yếu tố, tình huống gây ra bệnh là khác nhau. Có thể phân biệt:

- Những yếu tố cục bộ và có thể chỉnh sửa được như nằm viện, chia ly với cha mẹ, cha mẹ chết, có thêm em bé, chuyển chỗ ở sang một nơi hoàn toàn xa lạ...

- Những tình huống mãn tính và kéo dài như thiếu thốn về kinh tế - xã hội, không khí gia đình không lành mạnh, tình trạng chưa thành thục, bất thường hoặc có bệnh về cơ thể...

Sau đây là một số yếu tố nguy cơ đến từ môi trường sống, đặc biệt là từ môi trường gần gũi nhất với trẻ là gia đình, có thể dẫn đến rối loạn tâm lý ở trẻ em.

3.1.1.1. Vị trí của trẻ em trong gia đình

Đây là một vấn đề khá phức tạp, liên quan đến cha mẹ và ảnh hưởng của họ đối với con cái. Là con, đứa trẻ ngay từ khi chưa sinh ra cho đến lúc ra đời chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của những nhu cầu, mong muốn, ước mơ... của mẹ, của cha và của cả cha và mẹ. Tùy vào mong muốn này mà vị trí của trẻ trong gia đình sẽ như thế nào. Bản thân đứa trẻ, dù là vô thức hay có ý thức, với khả năng tâm lý của mình phải khuôn mình vào để đáp ứng những mong muốn này của cha mẹ. Đứa trẻ phải tìm chỗ của mình trong tâm lý của cha, của mẹ và của cặp cha mẹ và đồng thời của cả gia đình nó. Nếu đứa trẻ không giống với đứa con mong ước mà cha mẹ lại không thể điều chỉnh để thích ứng, để thừa nhận nó thì có thể trở thành một trong những nguyên nhân làm cho phát triển tâm lý của trẻ thiếu hài hòa hoặc rối loạn.

Chức năng làm cha mẹ rất phức tạp, sự biểu hiện của nó rất đa dạng. Cha mẹ sinh ra trẻ, nuôi dưỡng trẻ thành người và truyền cho trẻ những đặc trưng, bản sắc của gia đình, dòng họ, dân tộc...Ở những hoàn cảnh khác nhau, nền văn hóa khác nhau, các chức năng cơ bản của cha mẹ không phải lúc nào cũng luôn đi cùng nhau. Trường hợp con nuôi thì cha mẹ không phải là người sinh ra, cha mẹ đẻ lại không nuôi dưỡng trẻ và không thực hiện chức năng cha mẹ... Làm cha mẹ không hề dễ dàng, những khó khăn khi thực hiện chức năng làm cha mẹ cũng là cái tạo ra tính phức tạp của nó. Và có thể khẳng định rằng: gia đình giữ vai trò cơ bản đối với sự phát triển bình thường cũng như với việc xuất hiện những yếu tố tâm bệnh lý ở trẻ.

3.1.1.2. Thiếu hụt tình cảm

Thiếu hụt tình cảm ở trẻ em đã được nhiều nghiên cứu minh chứng cho tầm quan trọng của vấn đề này đối với sự phát triển tâm lý không bình thường ở trẻ. Ngày nay, vấn đề trẻ thiếu hụt tình cảm của mẹ rất được quan tâm và giữ vị trí ưu tiên hàng đầu.

Thiếu hụt tình cảm có nhiều loại, khác nhau về bản chất lẫn hình thức. Có thể nói đến ba loại sau:

- Không đủ quan hệ tương tác mẹ - con do vắng mẹ hoặc người thay thế mẹ.

- Gián đoạn quan hệ mẹ - con do nguyên nhân chia ly.

- Bất thường về phía người mẹ (mẹ lẫn lộn, rối loạn, không có khả năng...).

Thiếu hụt về tình cảm đưa đến những hậu quả khác nhau tùy theo bản chất của thiếu hụt (không đủ, bất thường hoặc gián đoạn) và theo thời gian kéo dài, theo tuổi của trẻ, theo chất lượng của chức năng làm mẹ. Những khác biệt này tạo nên sự khác nhau về kiểu loại phát triển của trẻ.

3.1.1.3. Stress và chấn thương tâm lý

a) Chấn thương tâm lý

Chấn thương tâm lý là trạng thái bàng hoàng, chấn động làm tổn thương lớn tới tâm lý - tình cảm, thường gắn với một sự kiện đặc biệt có thể dẫn đến cái chết hoặc đe dọa về cái chết đối với chủ thể hoặc người thân.

Những sự kiện gây chấn thương có thể là thảm họa thiên nhiên (động đất, cháy, lụt lội bất ngờ...), thảm họa con người (tai nạn máy bay, tàu hỏa, ô tô), hành động tội phạm (hành động khủng bố, bắt con tin, bắt cóc, xâm hại) hoặc hoàn cảnh chiến tranh. Ở trẻ em, những sự kiện gây chấn thương là những sự kiện trong đó trẻ em chứng kiến những thảm họa đến với người thân như bị tai nạn, bị thương nặng, cháy nhà...

Chứng kiến những sự kiện này, trẻ em ngay lập tức có phản ứng, đó là tình trạng stress cao độ. Trẻ kích động, rối loạn hoặc sững sờ rất mạnh và thời gian sau đó có tình trạng lo lắng nhiều, khó ngủ, có ác mộng, thu mình hoặc kích động. Tình trạng này có thể là tạm thời (vài ngày cho đến 4 tuần là tối đa) rồi mất đi, nhưng cũng có thể tồn tại dai dẳng dưới hình thức stress sau chấn thương.

b) Tình trạng stress sau chấn thương ở trẻ em

Tình trạng stress sau chấn thương được tính từ những tuần lễ sau chấn thương nặng mà trẻ là nạn nhân hoặc phải chứng kiến. Theo các kết quả khảo sát, tỉ lệ mắc stress sau chấn thương ở trẻ em Mỹ khoảng 1-14% và tỉ lệ mắc cho đến 18 tuổi khoảng 6%. Cũng như ở người lớn, tình trạng này có ba biểu hiện chính: Hội chứng nhắc lại; Những biểu hiện tránh né; Những triệu chứng tăng phản ứng của thần kinh thực vật ở trẻ. Những rối loạn này kéo dài hơn 1 tháng và bắt đầu trong vòng 3 tháng sau chấn thương, dẫn đến tình trạng đau khổ tâm lý cản trở khả năng thích ứng.

Hội chứng nhắc lại: Biểu hiện ở trẻ: Chơi những trò chơi nhắc lại một phần hoàn cảnh diễn ra chấn thương (trò chơi ô tô bị tai nạn, trò chơi búp bê... )

Những biểu hiện tránh né: Từ chối đi một kiểu phương tiện vận tải nào đó. Tránh né con đường hoặc địa điểm giống hoặc có thể dẫn tới nơi xảy ra chấn thương. Không chịu bỏ đi những hình ảnh gắn với một lo hãi chia ly.

Tăng phản ứng thần kinh thực vật: Khó ngủ, thức dậy giữa đêm; Cáu kỉnh, dễ nổi giận;  Khó tập trung làm kết quả học tập kém; Tăng kích động; Phản ứng giật mình thái quá với tiếng ồn, với những kích thích bất ngờ.

Chấn thương tâm lý có thể đến một cách bất ngờ, do những tình huống đột xuất và ảnh hưởng đáng kể đến tâm lý của trẻ. Khi trẻ có chấn thương và stress cần tiến hành chữa trị sớm.

3.1.2. Cách phòng ngừa rối loạn tâm lý ở trẻ em tuổi mầm non
3.1.2.1. Phòng ngừa trong tâm bệnh học trẻ em

Phòng ngừa trong tâm bệnh học trẻ em được hiểu là những cách thức mà xã hội, người lớn dùng để ngăn ngừa, chống lại sự xuất hiện và phát triển của những bệnh, rối loạn về tâm lý ở trẻ em. Có ba mức độ phòng ngừa:

- Mức thứ nhất: giáo dục, thông tin, thu xếp môi trường sống của trẻ em (gia đình nhà trường), tư vấn về mặt di truyền và dinh dưỡng, cách chăm sóc vệ sinh cơ thể và tâm trí nhằm ngăn cản sự không thích ứng về mặt tâm lý - xã hội của trẻ và giảm nguy cơ mắc bệnh về tâm trí.

- Mức thứ hai: thông qua những chẩn đoán sớm và chữa trị các triệu chứng ban đầu, cố gắng tránh sự phát triển bệnh về tâm trí ở trẻ em.

- Mức thứ ba: khi tâm bệnh đã phát triển thì ngăn cản không cho bệnh nặng lên bằng các cách chữa trị hiệu quả nhất có thể và không cho bệnh tái phát lại bằng cách theo dõi lâu dài với sự can thiệp của các nhà chuyên môn và của gia đình để cố gắng loại trừ những yếu tố làm cho tâm bệnh phát triển.

Như vậy, đây là công việc khá nặng nề và phức tạp đòi hỏi sự tham gia của nhiều lực lượng, cả về con người lẫn về phương tiện.

3.1.2.2. Cách phòng ngừa rối loạn tâm lý ở trẻ em tuổi mầm non

Với trẻ tuổi mầm non, có một số cách phòng ngừa rối loạn tâm lý sau đây dành cho cha mẹ của trẻ và cho các giáo viên mầm non:

a) Cách phòng ngừa dành cho cha mẹ của trẻ

Gia đình giữ vai trò cơ bản đối với sự phát triển bình thường hay bệnh lý của trẻ em. Vì vậy, phòng ngừa từ gia đình là rất quan trọng. Cha mẹ có thể sử dụng một số cách sau để phòng tránh sự xuất hiện và phát triển rối loạn tâm lý của con em mình:

- Nâng cao hiểu biết về tâm bệnh trẻ em bằng cách tìm hiểu các vấn đề có liên quan đến rối nhiễu tâm lý ở trẻ em trên các tài liệu chuyên môn hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như sách, báo, đài truyền hình, internet.

- Người mẹ ngay khi biết mình có thai cần có chế độ dinh dưỡng phù hợp để thuận lợi cho sự phát triển bình thường về mặt thể chất của thai nhi, tránh sử dụng thuốc bừa bãi, tránh dùng các chất có thể ảnh hưởng đến thai nhi. Nên đến các cơ sở chuyên môn để xin tư vấn nếu thấy có vấn đề về thể chất, gây lo ngại về tình trạng phát triển bình thường của trẻ.

- Tránh những buồn khổ, lo âu, căng thẳng thái quá và kéo dài khi mang thai.

- Có thái độ sẵn sàng đón nhận trẻ ngay từ khi trẻ chưa chào đời và nhất là khi trẻ ra đời, thậm chí cả khi bé không như gia đình mong đợi về tình trạng sức khỏe cũng như về hình dáng bên ngoài.

- Khi trẻ ra đời, cha mẹ và gia đình tạo điều kiện thuận lợi nhất có thể về mặt vật chất và môi trường sống cho trẻ. Đặc biệt quan trọng là người mẹ phải quan tâm đến con, yêu thương gắn bó và hết lòng vì con.

- Thiết lập quan hệ tình cảm tốt giữa cha mẹ và bé. Cả cha và mẹ cùng yêu thương, chăm sóc bé. Tính chất của quan hệ giữa cha mẹ và bé ngay từ khi trẻ còn rất nhỏ đã có thể ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý bình thường hay không bình thường của trẻ. Những đứa trẻ bị bỏ rơi, bị hành hạ không thể có được sự phát triển bình thường.

- Tránh xung đột lâu dài giữa cha và mẹ. Tạo cho trẻ môi trường tâm lý - tình cảm hài hòa.

- Trong chăm sóc và giáo dục trẻ cha mẹ cần tránh thái độ độc đoán, chuyên quyền một cách cực đoan. Phải biết quan sát và lắng nghe các diễn biến, bộc lộ tâm lý của trẻ. Cố gắng thu xếp thời gian và công việc để chăm sóc trẻ, chơi với con, trò chuyện, chia sẻ cùng con.

- Cha mẹ cần nhận biết sớm những bất thường trong tính cách và hành vi của con mình và kịp thời đưa trẻ đến các cơ sở chuyên môn để có những tư vấn và chữa trị thích hợp. Nên thường xuyên trao đổi với các giáo viên dạy trẻ để nắm bắt thêm về tình hình của con ở trường.

- Khi nhà chuyên môn xác định trẻ có biểu hiện rối loạn tâm lý, cha mẹ cần có thái độ bình tĩnh, kiên trì và kết hợp tốt với nhà chuyên môn để hiệu quả can thiệp, chữa trị cho trẻ cao.

b) Cách phòng ngừa dành cho giáo viên

Các giáo viên mầm non là những nhà giáo dục tiếp xúc sớm nhất với trẻ sau gia đình của bé. Hiểu biết và ứng xử của giáo viên mầm non có ý nghĩa lớn đối với việc phát hiện và tư vấn cho cha mẹ cách ứng xử cần thiết khi giáo viên nhận thấy trẻ có biểu hiện bất thường về tâm lý để có thể cùng với gia đình phòng ngừa rối loạn tâm lý ở trẻ phát triển. Có thể nói với giáo viên mầm non phát hiện sớm những rối loạn tâm lý ở trẻ là một cách phòng ngừa. Để làm được việc này, giáo viên mầm non cần phải có kiến thức về tâm bệnh trẻ em và thực hiện những cách sau để phát hiện rối loạn tâm lý ở trẻ:

- Quan sát trẻ trong các hoạt động hàng ngày ở trường mầm non, chú ý đến đặc điểm hành vi và cảm xúc của trẻ. Đặc điểm tâm lý của trẻ được thể hiện trong các hoạt động của các em. Người giáo viên quan tâm đến hành vi của trẻ sẽ nhận ra đặc điểm biểu hiện đời sống tâm lý bình thường hay không của trẻ. Một đứa trẻ có rối nhiễu tâm lý chắc chắn có những hành vi triệu chứng. Quan sát để nhận biết những hành vi này trong các hoạt động và sinh hoạt ở lớp mẫu giáo sẽ phát hiện được những bất thường của trẻ.

- So sánh các hành vi, biểu hiện cảm xúc giữa trẻ này và trẻ khác cùng độ tuổi. Những trẻ em cùng độ tuổi có những đặc điểm chung của lứa tuổi. Những trẻ có bất thường về tâm lý sẽ có những biểu hiện bất thường, đặc biệt về nhận thức, tình cảm, giao tiếp... so với những trẻ khác cùng độ tuổi. Cần phân biệt những nét riêng của từng trẻ tạo nên bản sắc cá nhân và những cái không bình thường. Nếu có kiến thức về tâm lý học trẻ em và tâm bệnh học, người giáo viên sẽ phân biệt được những khác biệt này.

Phát hiện kịp thời, từ đó có ứng xử thích hợp tức là giáo viên đã góp phần ngăn ngừa rối loạn tâm lý ở trẻ phát triển.

Made with eXeLearning (New Window)