Skip navigation

2.2 Bệnh lao

2.2.1 Nguyên nhân

 

Là do nhiễm vi khuẩn lao Mycobacterium lerculosis gây ra. Ở trẻ em thường lây từ người lớn bị lao, do trẻ tiếp xúc, hít phải những giọt xuất tiết ở mũi họng có chứa vi khuẩn lao, ổ lao đầu tiên thường ở phổi.

Yếu tố thuận lợi

- Tuổi nhỏ : tuổi càng nhỏ, nguy cơ mắc càng cao.

- Trẻ không được tiêm phòng

- Tình trạng dinh dưỡng kém, điều kiện vệ sinh thấp.

- Do trẻ mắc một số bệnh làm giảm sức đề kháng như bị sởi, ho gà, tiêu chảy kéo dài, suy dinh dưỡng.

Câu hỏi

- Nguyên nhân gây bệnh lao?

2.2.2 Triệu chứng

Ở trẻ em thường hay gặp thể lao sơ nhiễm, phổ biến là sơ nhiễm ở phổi

a. Thời kỳ ủ bệnh

Còn gọi là giai đoạn tiền dị ứng, khi vi khuẩn vào cơ thể từ 2 - 10 tuần chưa có biểu hiện gì.

b. Thời kỳ phát bệnh

* Ở trẻ có biểu hiện cấp tính

Sốt cao 39-400c, kèm theo co giật, nôn. Sốt cao kéo dài trên 3 tuần, trẻ li bì, ho nhiều. Ho có đờm, phổi có nhiều tiếng ran ẩm, có thể viêm kết mạc, phỏng nước.

* Ở trẻ có biểu hiện từ từ

- Trẻ sốt thất thường, kéo dài không rõ nguyên nhân.

- Ho lâu ngày, có thể có đau ngực.

- Hạch vùng cổ to và nhiều, kéo dài.

- Không tăng cân hay sụt cân : ăn kém, vã mồ hôi trộm, toàn thân suy kiệt, da xanh, không hồi phục sau nhiễm trùng, nhất là sau sởi, ho gà.

- Xét nghiệm : phản ứng Mantoux dương tính.

- X quang phổi có phức hợp sơ nhiễm.

Nếu trẻ khỏe, miễn dịch tốt, phần lớn trẻ bị sơ nhiễm ổn định và khỏi tự nhiên. Một số ít trẻ không khỏi trở thành lao sau sơ nhiễm :

+ Lao phổi : lao màng phổi, tràn dịch màng phổi, phế quản phế viêm lao, lao kê.

+ Lao hạch : các hạch to có chất bã đậu.

+ Lao toàn thể hay gặp ở trẻ 2 tuổi : các bộ phận trong cơ thể bị tổn thương như não, thận, gan, màng tim.

+ Lao màng não : trẻ sốt, co giật, dấu hiệuu màng não dương tính.

+ Lao xương, khớp, lao cột sống.

CÂU HỎI                                                                             

Trình bày triệu chứng của bệnh lao sơ nhiễm ở trẻ và sự tiến triển của bệnh?

2.2.3 Điều trị

* Chế độ chăm sóc

- Phải có chế độ ăn tốt : ăn đầy đủ các chất, nhất là vitamin và prôtêin để tăng sức đề kháng cho trẻ.

- Chăm sóc vệ sinh, giữ gìn tránh để trẻ bị lạnh, bị bội nhiễm thêm các vi khuẩn khác làm bệnh nặng thêm.

- Tinh thần trẻ phải được vui vẻ thoải mái, tránh gây cho trẻ những stress không cần thiết.

* Thuốc

Ở dạng sơ nhiễm không nhiều triệu chứng, dùng Isoniazit 10mg/kg/ngày uống trong 1 năm. Thường xuyên theo dõi tiến triển của bệnh, khi có biểu hiện nặng hơn phải điều trị theo bệnh viện.

Câu hỏi gợi ý tìm hiểu bài

- Chế độ chăm sóc cho người bệnh lao như thế nào?

2.2.4 Phòng bệnh

- Cách ly những bệnh nhân lao, kể cả các đồ dùng cá nhân. Không cho trẻ sống chung cùng với ông bà có nghi lao (ho kéo dài), hoặc những người già, sức khỏe yếu trông trẻ.

- Kiểm tra định kì bệnh lao các cô giáo mầm non và cán bộ phục vụ. Nếu phát hiện có bệnh phải cách ly với trẻ và điều trị bệnh. Tuyệt đối không được tiếp xúc với trẻ dưới bất kỳ hình thức nào. Với những trẻ bú mẹ, mẹ bị lao vẫn tiếp tục cho bú nếu sức khỏe của mẹ không quá yếu, nhưng phải điều trị dự phòng bằng Isoniazit 10mg/kg/ngày trong 3 tháng, kiểm tra định kỳ.

- Tiêm chủng BCG cho mọi trẻ ngay trong tháng đầu mới đẻ và những trẻ chưa bị nhiễm lao.

- Cần ăn uống đầy đủ, tập luyện thường xuyên, nhất là những trẻ sau khi bị sởi, bị ho gà.

Câu hỏi gợi ý tìm hiểu bài

- Nêu cách phòng bệnh lao?

- Cách phòng bệnh nào hiệu quả nhất?

ĐỌC THÊM

2. BCG

BCG là viết tắt của chữ trực khuẩn Calmette - Guérin (bacille Calmette - Guérin).

Calmette và Guérin là hai thầy thuốc người Pháp đã nuôi cấy trực khuẩn lao bò nhiều năm trong phòng thí nghiệm, trong môi trường có chứa mật động vật khiến trực khuẩn lao mất độc lực, không còn khả năng gây bệnh, chỉ còn tác dụng kích thích miễn dịch, tăng sức đề kháng của cơ thể. Các trực khuẩn này được gọi là trực khuẩn Calmette - Guérin.

Vaccin BCG có thể dùng theo nhiều đường. Lúc đầu được đưa vào cơ thề bằng đường uống, rồi bằng đường rạch khía trên da. Hiện nay cách dùng phổ biến là tiêm trong da.

Ở các nước, các vùng trẻ không được nuôi dưỡng tốt tác dụng bảo vệ của BCG không tới 15 năm.

BCG phải được tiêm trước khi trẻ bị nhiễm lao, khi phản ứng tuberculin của trẻ còn âm tính (tiêm cho trẻ sơ sinh).

BCG là biện pháp phòng lao chủ yếu cho trẻ em, bảo vệ được trẻ giảm được lây nhiễm lao, giảm được các thể lao nặng (lao kê, lao màng não). Tổ chức Y tế Thế giới và Hiệp hội bài lao và bệnh phổi quốc tế đã khuyên các nước có độ lưu hành bệnh lao cao cần tiêm BCG cho mọi trẻ em trừ các trẻ đang có AIDS tiến triển.

Vì tác dụng chủ yếu của BCG là phòng lao cho trẻ em và trẻ em không phải là nguồn lây lao (trẻ thường tự nuốt đờm, không có thói quen khạc nhổ, đờm của trẻ thường cũng ít khi tìm thấy trực khuẩn lao, số trực khuẩn lao có thể có nhưng không nhiều) nên tiêm BCG không phải là phương cách hữu hiệu làm giảm nguồn lây, làm giảm số người mắc bệnh trong cộng đồng. Muốn giảm nguồn lây trong cộng đồng, quan trọng nhất là phải chữa khỏi những người lao phổi có trực khuẩn lao phát hiện được trong đờm bằng cách soi trực tiếp

Made with eXeLearning (New Window)