HOẠT ĐỘNG ĐỌC HIỂU
Trước những biểu hiện rối loạn tâm lý của trẻ em cần nghiên cứu để xác định bản chất tình trạng rối nhiễu trên cơ sở đó đưa ra hướng tư vấn, chữa trị. Các nghiên cứu trong tâm bệnh học trẻ em có mục đích chính là xác định và đánh giá tình trạng tâm bệnh lý của trẻ, được thể hiện ở các phương pháp đánh giá tình trạng rối nhiễu tâm lý trẻ em.
Để đánh giá tình trạng tâm bệnh lý của trẻ em phải sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, kết hợp và bổ sung cho nhau. Sau đây là những phương pháp cơ bản:
1.2.1. Trò chuyện lâm sàng
Là phương pháp rất quan trọng, thường xuyên được sử dụng trong đánh giá và chẩn đoán tâm bệnh trẻ em. Thông qua việc trò chuyện, trao đổi và quan sát hành vi của trẻ em, cha mẹ và các thành viên trong gia đình, nhà tư vấn thu thập các thông tin cần thiết về đặc điểm tâm lý của trẻ và phân tích để đưa ra những nhận định về tình trạng bệnh lý ở trẻ. Chú ý đến những hành vi thể hiện sự đau khổ, phân tích một cách chính xác vị trí của nó (ở trẻ, ở cha mẹ, anh em, ở trường...), xác định vai trò của nó trong tổ chức tâm bệnh của cá nhân và trong các tác động của gia đình, chính xác hóa mức độ phát triển, nắm bắt lịch sử của trẻ và của cha mẹ. Đó là tóm tắt công việc khó khăn và phức tạp mà nhà tư vấn phải giải quyết.
Để thực hiện phương pháp này, nhất thiết phải có hiểu biết sâu sắc về sự phát triển bình thường của trẻ em. Về mặt tiến hành, hai nội dung đặc trưng chuyên biệt nhất của phương pháp trò chuyện mà nhà nghiên cứu cần phải quan tâm trong tâm bệnh trẻ em là:
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa trẻ với cha mẹ, thiết lập quan hệ giữa nhà lâm sàng với trẻ và cha mẹ các em.
- Xác định kiểu giao tiếp giữa nhà lâm sàng và trẻ.
1.2.2. Chẩn đoán hình ảnh
Trong một số trường hợp những trò chuyện điều tra cần được bổ sung thêm bằng một số những nghiên cứu bổ sung, có thể là về các mặt riêng biệt của chức năng tâm lý, có thể là những yếu tố cơ thể.
Thời gian gần đây các phương pháp chiếu chụp phát triển đã làm thay đổi nhiều hiểu biết về hệ thần kinh trung ương. Để đánh giá tốt hơn về tình trạng bệnh lý của trẻ, nên có những kết quả về chụp chiếu hệ thống thần kinh. Điều này rất có ích trong trường hợp có khối u não, hội chứng bại não, suy não thoái hóa... Chụp cộng hưởng từ đặc biệt cần cho bệnh thoái hóa não, chảy máu não, tình trạng sau chấn thương. Nó cũng giúp nghiên cứu tốt hơn về thùy chẩm và não tủy.
1.2.3. Đo thính giác
Tìm hiểu xem trẻ có khiếm khuyết về thính giác, kể cả một phần hay không là cần thiết và nên làm sớm do nó là một trong những nguyên nhân gây ra rối loạn trong giao tiếp, ứng xử và rối loạn ngôn ngữ. Có hai cách đo thính lực: chủ quan và khách quan.
Đo thính lực chủ quan giúp đánh giá ngưỡng thính giác. Cách đo này cần sự phối hợp của trẻ. Hạn chế của nó là kết quả phụ thuộc vào trạng thái tâm lý của các em. Trước một tuổi, kỹ thuật đo chủ yếu dựa vào phản ứng ngạc nhiên: phản ứng vận động, phản ứng dừng lại, phản xạ màng nhĩ - mi mắt, thay đổi điệu bộ. Từ một đến ba tuổi, dựa vào phản xạ định hướng có điều kiện: trẻ quay đầu về nguồn âm thanh đi kèm với một luồng sáng...Sự phối hợp của trẻ, khả năng tiếp xúc của nó cũng là những thông tin đáng tin cậy. Sau ba tuổi rưỡi, phương pháp Peep Show, sử dụng một cái mũ chuyên dùng, giúp nghiên cứu khả năng thính lực của từng tai một.
Đo thính lực khách quan không đòi hỏi sự phối hợp của người được đo. Có phương pháp đo chỉ số áp lực và các phương pháp điện sinh lý. Đo chỉ số áp lực giúp nghiên cứu hoạt động của tai giữa, nếu có thương tổn thì năng lượng âm thanh không được thu nhận nhưng lại có phản chiếu lại. Đo chỉ số áp lực là đo độ lớn của năng lượng phản chiếu lại này theo tần số của nó. Người ta cũng đo phản xạ co rút hai đầu cơ của xương nhỏ ở tai giữa khi tri giác một tín hiệu âm thanh, phản xạ này giúp cho chủ thể nghe được kích thích.
1.2.4. Trắc nghiệm tâm lý
Trắc nghiệm là một bài tập thử nghiệm được chuẩn hóa, cho phép so sánh các kết quả đạt được của một trẻ với kết quả đạt được của một nhóm trẻ đối chứng. Ngày nay người ta phân làm hai loại trắc nghiệm chính: trắc nghiệm về mức độ và trắc nghiệm về nhân cách.
- Trắc nghiệm về mức độ: dùng để đo lường mức độ thành công hoặc thất bại theo một loạt nhiệm vụ được chuẩn hóa. Trong đo lường trí tuệ, kết quả của nó được giải thích bằng chỉ số phát triển (QD, Development Quotient) hoặc bằng chỉ số khôn (IQ, Intelligence Quotient). Có các loại trắc nghiệm về mức độ sau:
- Trắc nghiệm tiền ngôn ngữ về phát triển tâm vận động: Test của Gesell, Brunet - Léàne và Casati – Lézine, đánh giá một loạt khả năng hoàn thiện vận động, được chuẩn hóa theo tuổi. Với mỗi loạt có thể đánh giá không chỉ về tuổi phát triển (AD, developmental age) mà còn là về chỉ số phát triển (QD) và mối liên quan giữa tuổi phát triển với tuổi đời.
Những trắc nghiệm dành cho trẻ nhỏ giúp xác định mức độ phát triển tâm vận động của một trẻ hài nhi hoặc một trẻ nhỏ trong mối quan hệ với mức độ trung bình nhưng không phải là đo chỉ số khôn (IQ, Intelligence Quotient). Tuy vậy, trong thực tế có mối tương quan thuận giữa QD của trẻ nhỏ với IQ của cũng trẻ đó khi ở tuổi thanh thiếu niên. Test Brunet - Lézine dùng cho trẻ từ vài tháng đến 5 tuổi.
- Trắc nghiệm trí tuệ: Test của Binet - Simon, Terman - Merill, NEMI. Các test này gồm những bài tập thử nghiệm khác nhau. Kết quả thu được được giải thích theo tuổi, cho biết về tình trạng chậm chễ hoặc phát triển trước của trình độ trí tuệ. Mỗi thử nghiệm xác định một tuổi trí tuệ. Khi phần lớn những đứa trẻ ở một độ tuổi nhất định thành công với những thử nghiệm này thì phần lớn những trẻ ở độ tuổi ít hơn sẽ thất bại. Một trẻ 6 tuổi sẽ có tuổi trí tuệ là 6 nếu như nó thành công với những thử nghiệm mà bình thường phần lớn những trẻ 6 tuổi thành công. Nó sẽ có tuổi khôn là 4 tuổi rưỡi nếu thành công với những thử nghiệm mà bình thường phần lớn trẻ 4 tuổi rưỡi đạt được và thất bại với những thử nghiệm mà phần lớn trẻ 5 tuổi thành công... Các kết quả được đánh giá theo chỉ số khôn (IQ).
Tuổi khôn
Chỉ số khôn = -------------- x 100
Tuổi đời
- Trắc nghiệm về các chức năng nhận thức. Trắc nghiệm loại này có rất nhiều, sau đây là những test hay được dùng nhất trong lâm sàng. Mục đích của những test này là nghiên cứu chính xác hơn những chức năng nhận thức.
- Trắc nghiệm về khả năng xã hội: Xuất phát từ thực tế lâm sàng tần số sai lệch giữa mức độ trí tuệ với khả năng hòa nhập xã hội, nhất là ở một số trẻ chậm trí tuệ, các trắc nghiệm loại này ra đời.
+ Thang phát triển tâm lý xã hội (DPS- Stages of Psychosocial Development) của Zazzo. Thang đo này bao gồm ba phần giúp xác định mức độ phát triển tâm lý xã hội nhưng cũng đồng thời là trắc đồ về phát triển:(i) Khả năng tự cung cấp, thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu của bản thân (ăn uống, vệ sinh, mặc quần áo, học hành, di chuyển, đi ra); (ii) Mức độ phát triển hứng thú (hứng thú đối với sách vở, với cuộc sống xã hội: thể thao, hoạt động văn hóa...); (iii) Quan hệ liên cá nhân (quan hệ với cha mẹ, với những đứa trẻ khác).
+ Thang khác biệt về hiệu lực trí tuệ (EDEI) của Misès và Peron – Borelli. Đáp ứng cho việc phải xây dựng một test giúp phân biệt tốt hơn các khả năng của những trẻ chậm trí tuệ nặng, EDEI gồm năm thang đo: nhận biết- thông hiểu xã hội - hình thành khái niệm - phân loại - thích ứng cụ thể và 2 thang đo bổ sung về từ: gọi tên hình ảnh - định nghĩa. Kết quả được giải thích theo tuổi khôn, theo chỉ số phát triển (QD) hoặc theo thang đo.
- Trắc nghiệm về nhân cách: giúp xác định chất lượng của những quá trình tâm lý góp phần tạo thành nhân cách. Tất cả những câu trả lời được đưa ra trong trắc nghiệm về nhân cách đều có giá trị ứng nghiệm và có ý nghĩa, không giống với những câu trả lời trong trắc nghiệm về mức độ (bao giờ cũng có câu trả lời tốt hoặc kém, sai hoặc đúng). Trắc nghiệm về nhân cách gồm:
+ Bộ câu hỏi dựa theo mẫu của MMPI (Minnesota Multiphasic Personality Inventory), không dùng được cho trẻ trước 17 - 18 tuổi.
+ Các trắc nghiệm phóng chiếu. Trắc nghiệm phóng chiếu hay được dùng trong tâm bệnh trẻ em do tính hiệu quả của nó. Trắc nghiệm được xây dựng dựa vào mối liên quan giữa thế giới nội tâm của con người với những cái mà họ nhìn thấy, cảm nhận, thể hiện. Đặc trưng của trắc nghiệm phóng chiếu là đưa ra một kích thích về tri giác, một tình huống mù mờ nhất có thể để trong khi tri giác, giải quyết...chủ thể phóng chiếu tối đa những vấn đề của mình.
1.2.5. Thực nghiệm đánh giá về nhận thức
Không giống với những trắc nghiệm đã nói ở trên, những thực nghiệm này không phải để đánh giá mức độ hoàn thiện mà là xem chiến lược, cách thức mà chủ thể dùng để đạt tới sự hoàn thiện đó. Ở đây, những thực nghiệm mà Piaget và những nhà tâm lý học đi sau ông đưa ra được dùng để xác định mức độ suy luận theo những thời kỳ khác nhau, sự thể hiện những cấu trúc logic khác nhau.
Do những thực nghiệm này ít dựa vào tính chuẩn hóa nên cần có hiểu biết tốt về lý thuyết Piaget mới dùng được.